Đằng sau phố và đường Giảng Võ tấp nập là làng Giảng Võ (thuộc quận Ba Đình). Đây là làng (cũng là xã) lớn nhất ở phía Nam của tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, với diện tích 402 mẫu, dân số (năm 1926) là 9185 người.
Đằng sau phố và đường Giảng Võtấp nập là làng Giảng Võ (thuộc quận Ba Đình). Đây là làng (cũng là xã) lớn nhất ở phía Nam của tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, với diện tích 402 mẫu, dân số (năm 1926) là 9185 người.
Đồng ruộng của làng xưa kia trải rộng mênh mông, trong tổng diện tích của làng, có đến 378 mẫu là ruộng công, một phần dùng vào việc thờ cúng, một phần để đấu thầu lấy tiền chi cho các việc hành chính; số còn lại chia cho các suất đinh, mỗi người được 2 - 3 sào, tùy định kỳ chia đất.
Tư liệu lịch sử cho biết, vào đời Vua Lý Anh Tông (1138 - 1175), đã cho lập Giảng Võ Trường, là nơi huấn luyện quân sự, võ nghệ. Các địa danh: Đồng Tràng (nơi tập võ và thi võ), Đấu đong, Gò Cờ, Bãi Đạn, Gò Điện Thí minh chứng điều này. Sang thời Trần, trường Giảng Võ chuyển đi nơi khác, chỉ còn Võ Trại.
Dân làng Giảng Võ xưa kia sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp (trồng lúa, nuôi lợn). Một số ra phố kéo xe tay, làm phu khuân vác. Một số ít người đi buôn, làm chủ thầu trở nên giàu có. Nhìn chung, đời sống kinh tế của dân làng khá và ổn định hơn so với các làng trong vùng. Trong làng có nhiều nhà ngói, đường làng đều được lát gạch.
Làng Giảng Võ xưa có các họ gốc là: họ Trương Đức và hai họ Trương Văn là ba họ đông nhất; họ Nguyễn Duy (là họ có thần thế nhất), Nguyễn Bá, Trần Văn, Trần Đình là những họ tương đối lớn. Các họ nhỏ là: Ngô, Hoàng, Dương, Phạm. Làng có 3 xóm: Cổng, Đình và Đa. Trai đinh trong làng sinh hoạt trong 3 giáp: Gia Lâm, Lệ Mật và Tú Quý, điều này khiến cho ta liên tưởng gốc gác của người làng từ các làng ở huyện Gia Lâm chuyển sang.
Làng Giảng Võ có ngôi đình ở chính giữa làng, bị cháy vào năm Đinh Tỵ (1917), sau đó được dựng lại. Đình làng thờ bà Châu Nương (hay Nàng Châu), bố là người làng Cổ Pháp (nay là làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh), mẹ người làng Giảng Võ. Châu Nương được bố mẹ cho ăn học, có chí lớn. Về sau bà kết duyên với ông Thái bảo họ Trần làm Đốc bộ Hoan Châu (Nghệ An). Khi quân Nguyên xâm lược nước ta, Đốc bộ Trần giao cho bà Châu Nương giữ thành, còn mình thì rút ra Diễn Châu để bổ sung quân số. Châu Nương tổ chức chiến đấu giữ thành, quân địch không thể tiến vào được. Sau đó, Đốc bộ Trần đem quân về Hoan Châu giải vây cho vợ. Giặc tan, hai ông bà trở về Kinh, được vua ban thưởng. Nàng Châu được giao nhiệm vụ giữ kho tàng trong hoàng thành. Đến khi quân Nguyễn xâm lược nước ta lần thứ ba (cuối năm 1287), triều đình phải rời khỏi Thăng Long. Bà Châu Nương vừa lo sơ tán kho tàng xong thì giặc ập đến và bị giặc giết. Xác bà hóa thành một con rắn biến về phía Võ trại. Về sau, Vua Trần phong cho bà là “Quản chưởng quốc khố công chúa”, dân làng thường tôn bà là “Bà chúa kho”, lệnh cho làng Giảng Võ và 22 làng trong Kinh thành lập đền thờ.
Ngoài đình, trước đây làng Giảng Võ có ngôi chùa Thái Bình ở gò Điện Thí (nay là khu vực khách sạn Giảng Võ), nhà thờ Công giáo xây năm 1920.
TS. Bùi Xuân Đính
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.