Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Đồng Nhân

TUYETMINH| 11/07/2006 10:22

(HNMĐT)- Làng Đồng Nhân là một làng rất cổ, với chứng tích là ngôi đền thờ Hai Bà Trưng được xây dựng vào năm Nhâm Tuất đời Vua Lý Anh Tông (1142). Xa xưa, làng ở sát sông Hồng, ngoài đê, sau vì sông chuyển dòng, đất bị lở, phần lớn dân làng phải chuyển dần vào trong (từ năm Canh Tý đời Minh Mạng - 1840), tại Võ sở (trường dạy võ thời Lê nằm trên đất làng Hương Viên).

(HNMĐT)- Làng Đồng Nhân là một làng rất cổ, với chứng tích là ngôi đền thờ Hai Bà Trưng được xây dựng vào năm Nhâm Tuất đời Vua Lý Anh Tông (1142). Xa xưa, làng ở sát sông Hồng, ngoài đê, sau vì sông chuyển dòng, đất bị lở, phần lớn dân làng phải chuyển dần vào trong (từ năm Canh Tý đời Minh Mạng - 1840), tại Võ sở (trường dạy võ thời Lê nằm trên đất làng Hương Viên).

Vì thế, làng chia làm hai bộ phận : bộ phận ngoài đê ở sát sông Hồng (đoạn cuối của đường Bạch Đằng hiện nay) gọi là Đồng Nhân Châu thuộc tổng Thanh Nhàn huyện Thọ Xương; còn bộ phận ở trong đê, tập trung ở khu vực đình, chùa làng và đền Hai Bà hiện nay, thời Pháp thuộc phát triển thành phố Đồng Nhân thuộc khu vực nội thành. Hai bộ phận theo hai chế độ hành chính khác nhau : Đồng Nhân Châu theo chế độ nông thôn, có lý trưởng riêng; còn Đồng Nhân phố có trưởng phố cai quản. Mặc dầu vậy, hai bộ phận cư dân vẫn chung lệ tục về phe giáp, đình đám, giỗ tết, hội lệ… hiện nay, làng Đồng Nhân gốc thuộc phường Bạch Đằng, còn phố Đồng Nhân thuộc phường Đồng Nhân cùng thuộc quận Hai Bà Trưng.

Đồng Nhân có dân số trung bình (năm 1928 có 927 nhân khẩu). Họ gốc là họ Hoàng (hai họ); các họ đến sau là : Nguyễn, Cải, Tô, Hoàng. Làng có 3 xóm : Trên, Giữa, Dưới. Trai đinh xưa kia sinh hoạt trong 5 giáp : Bắc Thịnh, Bắc Thượng, Đông, Đoài và Nam. Lệ làng xưa kia tương đối nặng : con trai đến 8 tuổi phải nộp trầu cau ghi tên vào phe, giáp; từ đó đến khi 40 tuổi phải qua hai lần làm cai đám, mỗi lần phải biện 250 cân gạo nếp để làm bánh dày, một con lợn 50 cân; con rể là người ngoài làng phải nộp cheo 2000 viên gạch để lát trường làng hoặc nộp 2 mâm đồng để làng dùng tại đình.

Dân làng Đồng Nhân xưa kia sống dựa chủ yếu vào việc trồng màu trên các cánh bãi ven sông và vệ đê. Tuy sống gần sông, nhưng làng không có người làm nghề đánh cá vì nghèo, không đủ tiền sắm thuyền lưới, chỉ có một số người kéo vó, đánh dậm ven sông vào mùa nước lên. Vì nước lũ gây xói lở nên nhiều gia đình không đủ đất làm ăn, phải vào nội thành đi đội đất thuê, đóng cọc tre cho các công trình xây dựng, san lấp ao hồ, làm phu hồ, đội than ở cảng Phà Đen … Trước Cách mạng Tháng Tám, làng rất nghèo, không có ngôi nhà ngói nào. Làng cũng không có người học hành đỗ đạt.

Phố Đồng Nhân hiện còn ngôi đền thờ Hai Bà Trưng, gọi theo tên làng cũ là đền Đồng Nhân, đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1962. Đền được xây theo một huyền tích : vào năm Nhâm Tuất (1142), có hai pho tượng Hai Bà Trưng bằng đá trôi theo sông Hồng, đến đầu tháng Hai (ăm lịch), hai pho tượng tỏa sáng tại bãi Đồng Nhân. Dân làng rước hai pho tượng vào bờ. Vua Lý Anh Tông nghe tin liền lệnh cho lập đền thờ ngay tại bãi đó. Về sau, vào vì bãĩ sông lở, đền được chuyển vào vị trí hiện nay. Toàn bộ sự tích của đền được ghi lại trên tấm bia do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm chuyển đền (năm Canh Tý đời Minh Mạng -1840) hiện còn dựng trong đền. Hội đền Đồng Nhân là một hội lớn trong vùng.

TS. Bùi Xuân Đính

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Làng Đồng Nhân

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.