Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Châu Phong

TUYETMINH| 11/12/2007 19:23

(HNMĐT)- Năm 208 trước Công nguyên, An Dương Vương định đô ở Cổ Loa. Dân làng này (tên Nôm là Chạ Chủ) phải chuyển xuống lập cư tại khu đất trũng ở cuối nhánh sông cụt của sông Hoàng Giang từ Cổ Loa chảy về.

Di tích Cổ Loa Ảnh: Nguyệt Ánh

(HNMĐT)- Năm 208 trước Công nguyên, An Dương Vương định đô ở Cổ Loa. Dân làng này (tên Nôm là Chạ Chủ) phải chuyển xuống lập cư tại khu đất trũng ở cuối nhánh sông cụt của sông Hoàng Giang từ Cổ Loa chảy về.

Từ khu cư trú đầu tiên ở thôn Đại Vĩ (tên Nôm là Quậy Cả), nay thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, các dòng họ, tập trung là họ Phạm chuyển ra sinh sống tại một xóm mới ở phía Tây Nam, gọi là Quậy Sau, tên chữ là Châu Phong, chính là thôn Châu Phong thuộc xã Liên Hà ngày nay. 

Châu Phong cùng với hai làng Đại Vĩ và Giao Tác cùng có tên Nôm là làng Quậy, nằm trong trong khu vực có cốt đất thấp trong huyện Đông Anh (từ 3 - 6 mét so với mực nước biển). Từ xưa khi so sánh thế đất của các làng Giỗ - Quậy với vùng Cổ Loa, người trong vùng đã tổng kết “Quậy ủ Chủ tươi, Quậy cười Chủ khóc” (làng Quậy mà ủ rũ vì mất mùa thì làng Chạ Chủ tươi cười vì được mùa và ngược lại). Trong ba làng Quậy, Châu Phong là trũng nhất nên xưa kia dân làng chỉ cấy được vụ lúa chiêm, kiếm thêm thu nhập bằng khai thác các nguồn thuỷ sản trong đồng trũng, làm thêm nghề mộc, xây.

Về mặt hành chính, làng Châu Phong cùng với hai làng Đại Vĩ và Giao Tác hợp thành trang Hà Hào, sau đổi thành Hà Vĩ. Đầu thế kỷ XIX, xã Hà Vĩ thuộc tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ tháng 11 năm 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Hà Vĩ vẫn là một xã độc lập, đến tháng 4 - 1949 nhập với xã Ngũ Hà thành xã Liên Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Từ tháng 5 - 1961, xã Liên Hà được cắt chuyển về huyện Đông Anh thành phố Hà Nội.

Về mặt tổ chức xã hội, tuy đã phát triển thành cụm dân cư đông đúc, như một làng riêng, nhưng Châu Phong (Quậy Sau) vẫn có mối quan hệ mật thiết với hai cụm dân cư của làng gốc là Đại Vĩ và Giao Tác. Trai đinh trong làng trước đây sinh hoạt trong 5/ 6 giáp của cả làng Quậy, song tập trung đông đảo ở giáp Châu Hưng (hay giáp Sau). Giáp này có chỗ ngồi ở góc Đông phía trước (Đông Tiến) tại đình chung của ba làng, cũng chịu trách nhiệm tu bổ góc đình này. Góc có tám người lềnh (chạ) ở tuổi từ 49 trở xuống lo việc tế tự ở đình, tám người xỉ (dưới tuổi lềnh) giúp việc, bốn người thứ ba chuyên làm cỗ. Lệ vào giáp được tiến hành vào các dịp: mồng 10 tháng Tư; mồng 10 tháng Bảy; 12 tháng Chín và 10 tháng Một (các ngày giỗ thánh). Mỗi dịp này mỗi giáp phải sửa lễ là một con lợn, người vào giáp phải gánh. Ngoài ngôi thứ ở đình chung, làng còn có ngôi thứ riêng, gọi là Nhiêu Thôn, chỉ mang danh là chính, không được miễn phu tráng.

Về mặt tín ngưỡng, làng Châu Phong chung đình với hai làng Đại Vĩ và Giao Tác, cùng thờ 5 vị thành hoàng là: Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng đều là người trang Hà Hào, đã chiêu mộ được hơn 500 binh sĩ theo Hai Bà Trưng khởi ứng nghĩa, đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán, giải phóng 65 thành trì trong cả nước về sau, Thủy Hải, Đăng Giang hy sinh tại chiến trường, Khổng Chúng hy sinh ở quê, dân làng lập miếu thờ ông tại Quần Trùng ở làng Châu Phong.

Ngoài ra còn thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống) có công giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương và Đông Hải (con của Đoàn Thượng, một hào trưởng thời Lý) đã lấy Đại Vĩ làm căn cứ địa để chống lại nhà Trần. Xa xưa, sáng sớm ngày 12 tháng Giêng, Châu Phong rước kiệu có bát hương, có cờ, lọng, bát âm hộ giá từ nghè sang đình. Khi kiệu Châu Phong đến sân đình thì ông Điện (thủ từ đình) nhận nồi hương đưa lên hương án trong đình rồi cùng các quan viên kỳ mục của ba cụm làm lễ nhập tịch, rồi rước thần ra Cầu Đê theo quy định : Châu Phong rước thần, Đại Vĩ rước văn và Giao Tác rước mã. Sau đó là các chầu tế. Đến năm Đinh Tỵ đời Khải Định (1917), Châu Phong dựng ngôi nghè gồm năm gian, hai dĩ, hướng Nam để thờ vọng năm vị thành hoàng của xã Hà Vĩ, những ngày sóc vọng hoặc những năm không vào hội dân làng được làm lễ tại đây. Năm nào vào hội thì ngày 12 tháng Giêng rước kiệu thánh sang đình chung (đình Hà Vĩ), đến ngày 30 mới rước về nghè, nếu năm đó thật được mùa thì tổ chức hội đến mồng sáu tháng Hai. 

PGS, TS. Bùi Xuân Đính

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Làng Châu Phong

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.