(HNMĐT)- Làng Bồ Đề có tên gốc là Phú Viên hoặc Phú Hựu, sở dĩ gọi là “Bồ Đề” vì xa xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long ở bên kia sông.
Trong kháng chiến chống Pháp, làng nằm trong xã Toàn Thắng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Hòa bình lập lại, làng cùng các làng : Ái Mộ, Ngọc Lâm và Lâm Du tách khỏi xã Toàn Thắng thành xã Hồng Tiến thuộc quận VIII nội thành Hà Nội. Tháng 5 - 1961, lại cắt về huyện Gia Lâm, khi huyện này được chuyển từ tỉnh Bắc Ninh về Hà Nội. Năm 1965, đổi tên thành xã Bồ Đề. Từ tháng 11 - 2003 trở thành một phường của quận Long Biên.
Làng Bồ Đề có một vị trí chiến lược quan trọng. Làng ở ngay đê sông Hồng, bên kia cầu Chương Dương. Từ Bồ Đề có hai đường Thiên lý, một đường đi Cổ Bi - Phú Thị - Bảo Khám - Bảo Triện - Nhị Trai để sang trấn Hải Dương; một đường đi Như Quỳnh, xuống Hải Dương - Hải Phòng, tức Quốc lộ số 5 hiện nay. Từ Bồ Đề lại có sông Hồng (đoạn sông này gọi là sông Bồ Đề, có bến Bồ Đề) và đường đê xuống Bát Tràng và các huyện ven sông của tỉnh Hưng Yên.
Làng Bồ Đề tuy nhỏ (năm 1928 mới có 383 nhân khẩu), nhưng đã đi vào chính sử và dân gian với câu ca dao quen thuộc : “Nhong nhong ngựa ông đã về, cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”. Câu ca dao này ra đời vào nửa sau những năm 20 của thế kỷ XV, khi Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đã đóng tại đây để tiến hành cuộc bao vây thành Đông Quan - nơi cố thủ của bộ chỉ huy quân xâm lược Minh (cuối năm 1426). Sở dĩ Bồ Đề được chọn làm đại bản doanh của nghĩa quân Lam Sơn do tính chất kề cận Thăng Long, nhưng lại ngăn cách với Thăng Long bởi sông Hồng, và vì vị trí thông thương của làng. Nơi đóng bản doanh đó gọi là “dinh Bồ Đề”. Lê Lợi đã lập chòi trên hai cây bồ đề, một để ông trực tiếp quan sát quân Minh trong thành Đông Quan, một làm nơi làm việc của Nguyễn Trãi, soạn thảo công văn, giấy tờ. Tục truyền, trẻ con làng Bồ Đề khi đó thường cắt cỏ cho ngựa của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng trong Bộ chỉ huy nên mới có câu ca trên. Đặc biệt, ngay tại dinh Bồ Đề, vào cuối năm 1426, Lê Lợi đã tổ chức kỳ thi Minh kinh bác học, lấy đỗ 32 Tiến sĩ. Sau khi giặc Minh rút khỏi (tháng 12 - 1427), Lê Lợi vẫn đóng tại dinh Bồ Đề đến đầu năm 1428 mới chuyển vào thành Đông Quan (tức Thăng Long). Sau đó, tại Bồ Đề đặt một trạm giao thông để chuyển đệ công văn. Vào những thời kỳ đất nước lâm vào nội chiến, Bồ Đề từng là nơi “dung thân” của nhiều vị vua như Lê Chiêu Tông (năm 1518), Mạc Mậu Hợp (những năm 70 của thế kỷ XVI), song tại bến sông Bồ Đề, cũng từng xảy ra nhiều trận chiến ác liệt. Mạc Mậu Hợp từng bị chém tại bến đò này (năm 1592).
Dân làng Bồ Đề xưa làm ruộng kết hợp buôn bán và nấu rượu, một loại rượu ngọt để trong 3 tháng. Ngày nay, Bồ Đề đang được đô thị hóa mạnh mẽ, trở thành phố phường với những khách sạn, nhà nghỉ sầm uất.
TS. Bùi Xuân Đính
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.