Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo nên kỳ tích chưa từng có trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có thể khẳng định đây là thắng lợi to lớn nhất của một dân tộc luôn khát vọng độc lập, tự do.
1. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 diễn ra trong một thời gian không dài, bắt đầu từ ngày ban bố Quân lệnh số 1 (13-8-1945) đến tỉnh Đồng Nai Thượng và Hà Tiên khởi nghĩa thành công (28-8-1945). Tuy nhiên, để có được thành quả to lớn ấy, cách mạng Việt Nam đã phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài từ chuyển hướng chiến lược cách mạng đến xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Mặt trận Việt Minh, chỉ trong vòng nửa tháng (từ ngày 14 đến 28-8-1945), ở tất cả các địa phương (cấp tỉnh) trong cả nước, chính quyền đã về tay nhân dân. Riêng ở ba thành phố lớn (Hà Nội, Huế, Sài Gòn), cuộc khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra khá thuận lợi.
Ngày 19-8-1945 khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi, Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời Hà Nội được thành lập (gồm 5 người). Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa ở Huế thành công. Đêm 23-8, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam từ Hà Nội điện vào yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 24-8, Bảo Đại điện trả lời, đồng ý tuyên bố thoái vị và “mong ước Chủ tịch Chính phủ Nhân dân lâm thời về kinh để nhà vua trao quyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử một phái đoàn của Chính phủ lâm thời vào Huế để chứng kiến sự thoái vị của Bảo Đại và thu ấn kiếm. Phái đoàn gồm có các ông Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận. Đúng 16h ngày 30-8-1945, hơn 5 vạn nhân dân thành phố Huế tập hợp ở Ngọ Môn để chứng kiến một sự kiện trọng đại: Bảo Đại - vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ tồn tại hàng nghìn năm, tuyên bố thoái vị và trao ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 25-8-1945, Sài Gòn khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ được thành lập gồm 9 người đại diện các đảng phái, các tổ chức chính trị. Ông Trần Văn Giàu, đại diện Đảng Cộng sản làm Chủ tịch. Đến ngày 28-8, hai địa phương cuối cùng là Đồng Nai Thượng và Hà Tiên khởi nghĩa giành chính quyền thành công.
Tại Hà Nội, đúng 2h chiều ngày 2-9-1945, trên lễ đài ở Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trang trọng đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" lịch sử, tuyên bố với toàn thế giới về sự hiện diện của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. "Tuyên ngôn Độc lập" là một văn bản pháp lý mang tính quốc tế. Nội dung bản Tuyên ngôn đã chắt lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại từng được thể hiện trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" của nước Mỹ năm 1776 và bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791. Đó là những khẳng định về quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Cao cả và sâu sắc hơn hết, nội dung bản "Tuyên ngôn Độc lập" chính là tiếng vọng từ ngàn đời, là cội nguồn ý chí, bản lĩnh, khát vọng độc lập, tự do của các thế hệ người Việt Nam trong hành trình dựng nước và giữ nước trải dài hàng mấy thiên niên kỷ.
2. Nét nổi bật bao trùm của lịch sử dân tộc Việt Nam là quá trình dựng nước đi đôi với giữ nước. Ngay từ thời sơ sử, truyền thuyết hay trong ký ức dân gian còn nhắc lại nhiều sự kiện cư dân Lạc Việt của nhà nước Văn Lang thời các vua Hùng đã phải chống lại nhiều kẻ thù xâm lược như giặc Ân, giặc Xích Tỵ (Mũi đỏ). Câu chuyện về cậu bé làng Gióng chống giặc Ân được coi là sự kiện đầu tiên trong truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta.
Theo nghiên cứu của giới sử học, kể từ khi lập quốc cho đến nay, dân tộc Việt Nam đã trải qua 17 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và chiến tranh vệ quốc. Sau cuộc kháng chiến chống Triệu Đà thất bại, đất nước ta chịu ách đô hộ của ngoại bang hơn một nghìn năm, nhưng nhân dân ta vẫn quật cường đứng lên quyết giành tự do độc lập. Các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng... chính là phản ánh ý chí, bản lĩnh và khát vọng tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam.
Năm 905, hào trưởng Hồng Châu Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ, dần dần thoát ly khỏi ảnh hưởng của chính quyền phương Bắc. Đặc biệt, sau chiến thắng Bạch Đằng (năm 938), Ngô Quyền đã khẳng định nền độc lập, tự chủ bằng việc xây dựng một nhà nước quân chủ, đóng đô ở Cổ Loa “để nối lại quốc thống”.
Điểm lại trong toàn bộ tiến trình lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam có ba cuộc kháng chiến đã lưu lại dấu ấn văn bản hoặc ký ức về tư tưởng độc lập dân tộc, về quyền tự chủ, tự quyết... là nguồn cội ý tưởng của bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945.
Đó là bài thơ “Thần” trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075 - 1077): "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" (Dịch: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ thất bại hoàn toàn".
Bài thơ đã đi vào lịch sử quang vinh của dân tộc như một bản tuyên ngôn độc lập - bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi - Lời tuyên bố về nền độc lập, tự chủ của Đại Việt sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: "Xét như nước Đại Việt ta/ Thật là một nước văn hiến/ Bờ cõi sông núi đã riêng/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/…/ Xã tắc do đó được yên/ Non sông do đó đổi mới/ Càn khôn bĩ mà lại thái/ Nhật nguyệt mờ mà lại trong/ Để mở nền thái bình muôn thuở/ Để rửa nỗi nhục ngàn thu/ Ôi! Một gươm đại định tạo thành công nghiệp vô song/ Bốn biển lặng yên, rộng ban duy tân tuyên cáo/ Bá cáo thiên hạ để mọi người nghe!".
Bản tuyên ngôn độc lập thứ ba là sự kiện vua Quang Trung hiểu dụ tướng sĩ trong buổi “thệ sư” ở Thọ Hạc (Thanh Hóa) trên đường tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh (1789). Trong buổi lễ tuyên thệ trang trọng đó, Quang Trung đọc bài hiểu dụ tướng sĩ với những lời tuyên bố đanh thép biểu thị cao độ ý chí độc lập tự chủ và quyết tâm tiêu diệt địch: "Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".
Cùng với thời gian, ý thức dân tộc ngày càng trưởng thành, nền độc lập dân tộc càng được khẳng định. Bằng sự quyết tâm cao, đồng thuận đồng lòng trên dưới, bằng sức mạnh đoàn kết “chúng chí thành thành”... cả dân tộc đã vượt qua mọi thử thách, gian nan, tổ chức các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi và khẳng định nền độc lập tự chủ của mình bằng những tuyên bố đanh thép trước quân thù. Trong hành trình ấy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được coi là mốc son lịch sử chói lọi nhất.
-----------
(*) Trích tham luận của PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ, Chủ tịch Hội đồng khoa học - Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn".
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.