Chính trị

Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)Những dấu mốc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Hiền Phương 01/04/2025 - 06:18

LTS: Chiến thắng ngày 30-4-1975 là thành quả vĩ đại, trang sử hào hùng, chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Nhân kỷ niệm 50 năm của sự kiện trọng đại này, Báo Hànộimới trân trọng giới thiệu loạt bài: “Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025): Những dấu mốc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975”.

Với góc nhìn tư liệu kết hợp phân tích sâu sắc, loạt bài tái hiện những quyết sách chiến lược, tinh thần quật cường của quân và dân ta, làm nên chiến thắng vang dội, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Bài 1: Chiến dịch Tây Nguyên - Thắng lợi mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, chiến thắng Tây Nguyên là chiến công mở đầu, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch trên toàn miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

xe-tang.jpg
Xe tăng quân giải phóng tiến vào thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 17-3-1975. Ảnh: TTXVN

Quyết định mở chiến dịch với mật danh “Chiến dịch 275”

Nắm vững thời cơ cách mạng, từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp quyết định về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, trong đó Nam Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu trong cuộc Tổng tiến công lớn năm 1975.

Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về chiến dịch Tây Nguyên. Tại hội nghị, ý định giải phóng Buôn Ma Thuột hình thành rõ rệt và chính thức quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên với mật danh “Chiến dịch 275”.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng Hoàng Minh Thảo được giao trọng trách làm Tư lệnh; Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Phó Bí thư Khu ủy và đồng chí Nguyễn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk đi cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ đạo các tỉnh phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực trong chuẩn bị cũng như trong tác chiến. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

Thực hiện kế hoạch tác chiến, ngày 4-3, chiến dịch Tây Nguyên nổ súng tiến công địch. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận then chốt quyết định của chiến dịch, một trận “điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Từ ngày 14 đến 18-3, quân ta đánh trận then chốt thứ hai, đập tan cuộc phản kích của Quân đoàn 2 ngụy, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy quân địch ở Tây Nguyên vào thế tan vỡ.

Từ ngày 17 đến 24-3, quân ta đánh trận then chốt thứ ba, truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên đường số 7; giải phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên.

Từ đầu tháng 4-1975, ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ, diệt Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24, giải phóng các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.

Đến ngày 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 thuộc Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 28 nghìn quân địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng pháo các loại, giải phóng 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức và một số tỉnh Trung Bộ.

Bước phát triển về nghệ thuật quân sự

Nghệ thuật chiến dịch Tây Nguyên có sự phát triển rất cao so với các chiến dịch diễn ra trước đó, trong đó nghệ thuật chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu và nghệ thuật nghi binh đánh lừa địch là những bài học thành công nhất.

Chọn Buôn Ma Thuột mở đầu chiến dịch Tây Nguyên, ta đã “điểm đúng huyệt”, đánh vào nơi rất hiểm yếu của địch. Chiếm được Buôn Ma Thuột, ta có điều kiện mở ra các hướng và phát triển thuật lợi; tiến về hướng Nam theo quốc lộ số 14 ta có thể uy hiếp miền Đông Nam Bộ; tiến về hướng Đông ta có thể cắt đôi miền Nam, uy hiếp các tỉnh duyên hải miền Trung và quân cảng Cam Ranh; tiến về hướng Bắc ta có thể uy hiếp Pleiku và Kon Tum. So với Pleiku, Kon Tum, địa hình ở Buôn Ma Thuột tương đối bằng phẳng, ta có điều kiện phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng đột phá vào các mục tiêu quan trọng. Hơn nữa, tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta tập trung lực lượng 3-4 lần hơn địch để đánh thắng trận mở đầu.

Các nhà chiến lược phương Tây đã bình luận: “Chỉ riêng việc chọn đúng nơi (Buôn Ma Thuột) làm điểm đột phá thôi đã là thiên tài rồi”. Báo Thế giới của Pháp, số ra ngày 21-3-1975 đã viết: “Chỉ cần một trận thôi, trận Buôn Ma Thuột mà khiến cho từng mảng lớn của chế độ Nguyễn Văn Thiệu dựng lên bị suy sụp. Hóa ra Buôn Ma Thuột mang cái đà của một bước ngoặt trong cuộc xung đột đã kéo dài 30 năm”. Còn tờ báo Kinh tế của Anh số ra ngày 23-3-1975 viết: “Mất Buôn Ma Thuột là Thiệu không tài nào giữ được Tây Nguyên”.

Bài học lớn thứ hai là mưu kế nghi binh, lừa địch, tạo thế, giữ quyền chủ động chiến dịch. Trong chiến dịch Buôn Ma Thuột, ta đã tiến hành một kế hoạch nghi binh rất công phu. Năm 1975, quân địch cho rằng ta chưa đủ điều kiện để đánh lớn ở Tây Nguyên, nhất là không thể đưa xe tăng vượt sông Sêrêpốc đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Ta đã kịp thời phát hiện và triệt để lợi dụng sai lầm đó của địch. Từ việc thay quân, chuyển quân đến việc đánh nghi binh, đánh mạnh như đánh thật khiến cho địch tin chắc là ta tiến công vào Bắc Tây Nguyên. Trong khi đó, ta chỉ để ở Bắc Tây Nguyên Sư đoàn 968 kìm chân và nghi binh thu hút địch ở Pleiku - Kon Tum, bí mật đưa 3 sư đoàn 10, 320, 316 xuống phía Nam bất ngờ vượt sông Sêrêpốc đột phá vào Buôn Ma Thuột.

Đó còn là nghệ thuật bí mật bất ngờ tập trung lực lượng tạo ra thế trận hơn hẳn địch trên hương và mục tiêu chủ yếu. Trong chiến dịch Tây Nguyên, ta đã tiến hành 3 trận then chốt xuất sắc, mỗi trận có điều kiện và thời cơ khác nhau nhưng cuối cùng ta đều giành thắng lợi.

Ở trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột, ta tập trung từ 3 đến 4 lần hơn địch, tiến công địch liên tục bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng. Do vậy, tuy địch trong thị xã có 8.000 tên nhưng đã bị quân ta tạo ra thế trận chia cắt và cô lập địch thành nhiều cụm, khiến chúng không chống nổi, khó ứng cứu cho nhau nên đã bị tiêu diệt và bắt sống toàn bộ.

Trong trận then chốt đánh Sư đoàn 23 đổ bộ đường không, tuy lực lượng ta và địch xấp xỉ nhau, nhưng ta đã tạo thế hơn hẳn địch. Khi quân địch vừa đổ quân, ta đã đánh phủ đầu, chia cắt địch thành nhiều cụm và sau cùng đã tập trung đánh đòn quyết định ở Phước An để nhanh chóng giành thắng lợi.

Còn trong trận truy kích trên đường số 7, tuy lực lượng địch đông hơn nhiều lần, nhưng với tinh thần kiên quyết, dũng cảm, quân ta đã tiến công liên tục làm cho địch bị chia cắt, thất bại, rút chạy hỗn loạn và bị thất bại thảm hại.

Nghệ thuật chiến dịch Tây Nguyên thể hiện sâu sắc tư tưởng, quan điểm chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, kế thừa những kinh nghiệm truyền thống của các cuộc chiến tranh, hội tụ đầy đủ các yếu tố cấu thành nghệ thuật chiến dịch, phát triển sáng tạo và thể hiện ở trình độ cao về nghệ thuật chiến dịch Việt Nam.

Nghệ thuật chiến dịch Tây Nguyên còn là bộ phận cấu thành của nghệ thuật tác chiến chiến lược trong chiến cuộc mùa Xuân năm 1975. Trong năm 1975, các chiến dịch và các hoạt động tác chiến đều có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ theo một kế hoạch thống nhất nhằm đạt mục đích do Bộ Tổng Tư lệnh đề ra. Do vậy, thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên trước hết là nằm trong kế hoạch chiến lược của Bộ Thống soái. Đó là ghìm địch ở hai đầu Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng, buộc địch sơ hở ở miền Trung và Tây Nguyên, tạo thế cho chiến dịch Tây Nguyên.

Chiến thắng Tây Nguyên là điểm khởi đầu dẫn đến sự tan rã và suy sụp về chiến lược của địch, tạo cho quân và dân ta những điều kiện thuận lợi để chuyển sang cuộc Tổng tiến công và nổi dậy phát triển như vũ bão giải phóng hoàn toàn miền Nam.

(Còn nữa)

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) Những dấu mốc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.