(HNM) - Cách trung tâm Thủ đô khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) - làng đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay mượn.
Vào làng phải có… phiên dịch
Nằm giữa ngã ba của sông Lương và sông Măng Giang (tên cổ của sông Nhuệ) là làng Đa Chất. Xã Đại Xuyên có 6 làng (nay là 6 xã) nhưng từ lâu nay Đa Chất vẫn được các làng trong xã coi là “anh cả”. Vào ngày hội các làng đều phải đem vật phẩm đến ngôi đình 500 năm tuổi, đã được xếp hạng Di tích Quốc gia để cúng tế. Đình Đa Chất (còn được gọi là đình ba nóc, đình tám mái).
Đường vào xã Đại Xuyên - nơi có làng Đa Chất có ngôn ngữ cổ. |
Đa Chất có không gian yên lành của chốn đồng quê ngoại thành với những đình, chùa, miếu, mạo và một cảm giác khác biệt. Đến đây như lạc vào một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng để trao đổi. Nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được thì bạn phải có người… phiên dịch!
Gặp tôi ở cổng ngôi đình, ông Thủ từ có tên Nguyễn Văn Đoàn, năm nay 73 tuổi cất giọng hỏi anh bạn đi cùng, vốn là người gốc của đất này: Mỗ khái, mỗ lõng ngoại? Nghe ông Đoàn hỏi vậy, anh bạn tôi cười rồi nói lại: Ông ấy hỏi cậu từ thành phố hay người làng khác đến? Bạn tôi dùng thứ ngôn ngữ của làng trả lời, lúc đó ông Thủ từ Đoàn mới dùng tiếng phổ thông để nói chuyện.
Mời tôi vào bệt cưu (đình làng) ông Nguyễn Văn Đoàn cho biết: Cái lệ tục của làng tôi nó vậy. Gặp người làng đầu tiên là phải dùng thứ ngôn ngữ này để trao đổi với nhau không các cụ quở chết. Tôi chả biết các cụ tổ trong làng chúng tôi sáng tạo ra thứ ngôn ngữ này từ bao giờ. Nhưng khi được sinh ra thành người chúng tôi đã thấy ông cha mình nói thứ tiếng ấy rồi. Có thể trao đổi công việc cả ngày mà không bao giờ hết vốn từ vựng. Lệ làng thưở xưa quy định tất cả những người sinh ra ở Đa Chất đều phải học thứ tiếng này. Người dân nơi đây có nghề đóng cối, sinh nhai cũng bằng thứ nghề này nên lang bạt tứ xứ, nhưng đến đâu, thấy ai nói thứ tiếng này dân tôi nhận ra nhau ngay mà không phải hỏi.
Một ngày, thử làm “nhà ngôn ngữ học”, tìm hiểu tôi thấy thứ ngôn ngữ lạ mà người Đa Chất đang dùng này vô cùng phong phú. Thứ tiếng này rất ít vay mượn từ ngữ của nơi khác. Điều này có thể khẳng định rằng, ngoài giá trị khoa học về mặt ngôn ngữ thì còn có cả một quá trình phát triển mà thời gian ước tính có thể đến vài trăm năm mới hoàn thiện được về mặt tín hiệu quy định.
Ngoài sự phong phú về vốn từ vựng, phải khẳng định một điều rằng thứ ngôn ngữ tạm coi là cổ (nhiều người còn cho là tiếng lóng) này của người Đa Chất rất giàu biểu cảm. Từ ngữ và cách sử dụng của họ cũng hết sức hình tượng, mà khi được nghe, tuy chưa biết nhưng cũng dễ để người ta hình dung ra được những gì mà người Đa Chất đang muốn nói.
Trong ý kiến của những người biết và quan tâm đến thứ ngôn ngữ này, có người quả quyết đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn lưu giữ lại. Sở dĩ tại sao lại dám đưa ra nhận định như vậy, tìm hiểu thêm tôi thấy rất nhiều từ ngữ mà chúng ta đang dùng hiện nay có sự vay mượn hay hoán cải của ngôn ngữ người Đa Chất. Chẳng hạn như để chỉ người bề trên, người quan trọng thì người Đa Chất dùng từ: Chóp bu. Từ này ngày nay đã phổ biến với ngôn ngữ phổ thông, chúng ta cũng hay dùng, ví như nhân vật chóp bu, quan chức chóp bu… Cứ nói đến từ này, bất cứ người Việt nào cũng hiểu đó là những người quan trọng.
Hay như từ Xấn xổ, người Đa Chất dùng để nói đến một hành vi tiến tới dùng sức lực và kể cả bạo lực để làm một cái gì đó mà người khác không muốn hay bị cưỡng ép. Ngày nay tiếng phổ thông ta cũng dùng từ này để chỉ những hành vi như trên như: Hắn ta xấn xổ đến, người ta xấn xổ tới… Cùng với từ xấn này, người Đa Chất đã ghép nó với các âm khác để hội thoại như: Xấn vụ (đóng cối), xấn đìa (làm ruộng), xấn bệt (làm nhà). Ngay từ bệt để chỉ cái nhà thôi cũng rất hay, giàu hình ảnh và có sức liên tưởng. Chúng ta thường dùng từ như đánh bệt, ngồi bệt xuống để chỉ hành động và trạng thái rất thoải mái của con người. Bệt - nhà, ai cũng vậy, khi về đến nhà, người ta về với cái riêng của mình, lúc đó mọi sinh hoạt và giao tiếp cũng được cho là thoải mái nhất. Để chỉ cái đẹp, người Đa Chất dùng từ choáng. Bệt choáng (nhà đẹp), nhát choáng (gái đẹp)… Và nay, người ta vẫn dùng từ này để chỉ những cái đẹp đến sửng sốt như: Cô ấy trông choáng nhỉ? Ông ấy có cái nhà choáng nhỉ…
Không chỉ hình tượng và tạo sự liên tưởng, hệ số đếm của làng cũng được hình thành với những cách đếm riêng và không phải vay mượn. Nhất (một), nhị (hai), thâm (ba), chớ (bốn), dâu (năm)… mười là lạp. Lái Lạp (hai mươi), thâm lạp (ba mươi)… bích (một trăm), bích rộng (một nghìn)… Thậm chí một số vật dụng thời hiện đại cũng đã được người dân ở đây chuyển theo ngôn ngữ riêng của mình. Đồng hồ (sưỡn nhật), sưỡn mỗ (ô tô), sưỡn trì (tàu thủy), sưỡn xì thiên (máy bay)… Có thể khẳng định rằng, với quy định và việc hình thành ngôn ngữ, người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của mình.
Nơi còn lại duy nhất ngôn ngữ cổ Văn Lang - Âu Lạc?
Vì theo lệ quy định nên người Đa Chất rất có chủ định về việc bảo lưu thứ ngôn ngữ này. Làng quy định chỉ truyền cho những người thuộc làng mình mà thôi. Vậy nên, tuy cận kề với các thôn khác như Cổ Trai, Thường Xuyên, Thái Lai, Kiều Đông, Kiều Đoài nhưng ở các làng này người dân đều không biết và không nói được thứ ngôn ngữ của người Đa Chất.
Về hiện tượng ngôn ngữ khác lạ này, hiện nay có rất nhiều quan điểm và cũng mới manh nha đánh giá. Nhưng tập trung lại, nhiều người cho rằng đó là thứ tiếng lóng và thứ ngôn ngữ cổ của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được. Thế nhưng trong hai quan điểm này, tiếng lóng đã gần như bị loại trừ vì tiếng lóng thường được coi là biệt ngữ - những tín hiệu ngôn ngữ riêng biệt của một nhóm người nào đó diễn ra trong một thời gian, không gian và hoàn cảnh nhất định. Như vậy, nếu là tiếng lóng thì việc sử dụng chỉ có ở một số người, không bền truyền và không thể có sự phong phú như thứ tiếng mà hiện nay người Đa Chất đang dùng.
Vậy nên hiện nay, giả thiết được coi là khoa học và phù hợp nhất: Đây là một dòng ngôn ngữ cổ, có thể là ngôn ngữ Văn Lang - Âu Lạc. Ông Chu Huy (Hội viên Hội Ngôn ngữ Việt Nam) và Nguyễn Dấn (Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã bước đầu khẳng định: “Tìm hiểu những biệt ngữ này thấy có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt, âm thông dụng và âm ít dùng, âm nói tắt, âm nói gọn và âm dân dã”.
Hơn thế, người dân ở đây còn truyền tụng một câu nói: “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương”. Theo thần phả của làng, đình Đa Chất hay đền Ba Lương chính là nơi thờ tự Trung Thành Đại Vương làm thành hoàng làng. Mà Trung Thành Đại Vương còn được gọi là Thổ Lệnh Trưởng - là Tướng chỉ huy Thủy quân thời Vua Hùng. Ngài là con thứ ba trong một bọc gồm 5 người con của vị Hào trưởng vùng Hồng Giang (sông Hồng) có tên là Đào Công Bột. Câu “Sinh Bạch Hạc” nói về Đào Công Bột còn “Thác Ba Lương” nói về sự hóa của Thổ Lệnh Trưởng con Ngài trong cuộc chiến Hùng - Thục. Có thể đây là một “khóa mở” cho dòng ngôn ngữ này vì với giả thiết, trước đây Trung Thành Đại Vương đã mang thủy quân của Hùng Vương xuống đây trấn đóng. Và với sự trấn đóng này, Ngài đã truyền thụ thứ ngôn ngữ cổ trên vùng đất này.
Sự hiện diện của một hệ thống ngôn ngữ mà người Đa Chất đang sử dụng, việc đóng thủy trại của Thổ Lệnh Trưởng vùng Bạch Hạc, Hồng Giang có một mối liên hệ với nhau như thế nào về ngôn ngữ? Và “nghi vấn” về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.