Cách mạng Tháng Tám làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh đất nước. Từ kiếp sống nô lệ, cả dân tộc vùng đứng lên giành lại chủ quyền, nhân quyền, kiêu hãnh là công dân nước Việt Nam mới, một nước độc lập, ngẩng mặt nhìn bầu trời tự do.
Cách mạng Tháng Tám làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh đất nước. Từ kiếp sống nô lệ, cả dân tộc vùng đứng lên giành lại chủ quyền, nhân quyền, kiêu hãnh là công dân nước Việt Nam mới, một nước độc lập, ngẩng mặt nhìn bầu trời tự do.
Cơn bão táp xua tan lớp mây mù ngàn năm, một sức sống mới bừng lên, một xã hội ngập tràn không khí cách mạng. Kịch trường xứ nhà cũng thổi lộng luồng gió mới. Một thế hệ kịch tác gia mới ra đời, ắp đầy nhiệt tình cách mạng, ngùn ngụt ý thức công dân. Đây là khởi điểm cho những sáng tạo thăng hoa, là căn bản của một nền sân khấu mới mẻ - sân khấu Cách mạng.
Tác giả tiêu biểu đầu tiên là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Với bút lực mạnh mẽ giàu tính hiện thực, chỉ trong thời gian rất ngắn ông đã hoàn thành kịch phẩm Bắc Sơn phản ánh tinh thần quật khởi của nhân dân, quyết liệt chống trả cường quyền áp bức dù có hy sinh cả tính mạng trong cuộc khởi nghĩa một mất một còn với kẻ thù... Báo Vì nước phát hành đầu năm 1946 đã bình luận và đánh giá: Bắc Sơn đã cảnh tỉnh cho những người còn nghi ngờ kịch Cách mạng và xứng đáng là vở kịch Cách mạng thành công nhất từ trước tới nay. Và, Bắc Sơn ra đời đã đặt nền móng cho một nền kịch nói. Kịch phẩm Bắc Sơn cũng hé lộ tài năng lớn của một cây bút xung lực cho kịch trường trong tương lai. Sau này những tác phẩm kịch Lũy hoa, Hẹn ngày trở lại, đặc sắc nhất là vở Vũ Như Tô đã chứng minh cho tiên liệu kỳ diệu ấy. Rất tiếc nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sớm qua đời không còn cống hiến tài năng sáng tác cho sự nghiệp sân khấu, đúng vào thời kỳ bút lực phát triển rực rỡ nhất.
Hiện thực cách mạng sôi động đầy biến cố phi thường đã lôi cuốn những cây bút đam mê đến với kịch nói. Học Phi là cán bộ chính trị viết kịch ngắn Cà sa giết giặc, Ngày mai... Các nhà thơ, văn nghệ sĩ cũng hăm hở vào cuộc. Trần Huyền Trân viết Soi đường, Ra đi, Đêm trong tù. Lưu Quang Thuận viết Quán Thăng Long, Người Hoa Lư, Cô Giang. Thâm Tâm viết Đầu quân, Lá cờ máu, Mười chín Tháng Tám, Lối sống, Đi Nam bộ. Thực không ngờ, một nhà thơ lãng mạn của phong trào “Thơ mới” như Thâm Tâm lại bước vào “làng kịch” hăng hái như thế, liên tiếp cho ra những tác phẩm đầy hào khí, phục vụ cho phong trào. Lê Đại Thanh vung bút viết Cùng đi, Nguyễn Văn Niêm viết Vượt ngục; Hoàng Công Khanh viết Về Hồ, Màn cửa vàng; Hàn Thái Lang viết Dân quân khởi nghĩa, Hoàng Diệu. Nhóm kịch Thế Lữ liên tiếp dàn dựng gần chục vở hừng hực khí thế cách mạng như: Ông đồ Giáp, Phan Đình Phùng tiếp xứ. Người loong toong trong sở mật thám, Ông đội Cung, Đời nghệ sĩ, Hai em liên lạc...
Phần lớn các vở trên đều là kịch ngắn, kịch vui, đề cập vai trò và nghĩa vụ công dân của nước Việt Nam mới, vụt đứng lên chống giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt. Kịch ngắn đóng vai trò xung kích, tác giả viết vừa ráo mực đã có thể tập hợp những người yêu kịch tập luyện, đi khắp nơi biểu diễn với sự phấn khích lạ kỳ. Khác hẳn trước kia là chơi kịch tài tử ? Đối tượng phục vụ chủ yếu là giới thượng lưu, trí thức, công chức... nay là đại đa số quần chúng yêu nước sục sôi khí thế cách mạng. Khán giả và nghệ sĩ chung một ý chí, trái tim hòa chung nhịp đập. Các vở diễn như Một người hào hiệp (của Nam Viên), Cúng, Giỗ, Kiện của Ngọc Tỉnh, Ngọc Đĩnh; Bến đò ngang của Bích Lộc; Đời sống mới của Sơn Nam... Kháng chiến bùng nổ, số đông văn nghệ sĩ ra vùng tự do dần dần tập hợp lại thành lập các đoàn kịch kháng chiến, trong đó diễn viên hầu hết là người Hà Nội. Nhóm Thanh Tịnh, Lưu Quang Thuận do thi sĩ Thế Lữ chủ trì viết và diễn các vở: Cụ đạo sư ông, Đề Thám, Ba người thợ rèn. ở Liên khu 3 nhà biên kịch trẻ Lộng Chương viết Lý Thới, Du kích thôn Đồi, Đòi con. Ngọc Đỉnh viết Đêm tân hôn; Hà Văn Cầu viết Chị Zét tê, Đêm nhổ bốt. Trong thời gian biệt phái về Liên khu 3 nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết Anh Sơ đầu quân, nhà văn Nam Cao viết Đóng góp...
Thực kỳ diệu, chỉ trong vòng hơn một năm sau Cách mạng Tháng Tám, đội ngũnhững người viết kịch trưởng thành thật hùng hậu, ngoài các nhà biên kịch còn có các nhạc sĩ, họa sĩ danh tiếng cũng hào hứng tham gia kịch trường, như Nguyễn SĩNgọc, Nguyễn Đình Hàm, Hoàng Lập Ngôn, vở nào các họa sĩ cũng nhiệt tình chăm sóc khâu trang phục, thiết kế sân khấu. Thiếu vai cũng lên sàn diễn. Các nhạc sĩ như Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước cũng hồ hởi tham gia. Đặc biệt phong trào kịch nói đã tạo dựng một đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn tài năng, như Sĩ Tiến, Đào Mộng Long từ sân khấu ca kịch chuyển sang. Diễn viên kịch cũng thăng hoa, tiêu biểu như nghệ sĩ Song Kim, Trúc Quỳnh, Trần Hoạt, Trần Bảng, Thùy Chi, Song Ninh, Đào Hồng Cẩm. Người cán bộ quân đội, nghệ sĩ tài hoa Đào Hồng Cẩm sau này trở thành nhà viết kịch lớn với những tác phẩm kịch xuất sắc như Chị Nhàn, Nổi gió, Đại đội trưởng của tôi... được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên năm 2001.
Hơn 60 năm nước Việt Nam mới, một quốc gia có chủ quyền, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước thống nhất ổn định và phát triển. Nhìn lại nền sân khấu cách mạng ra đời trong cơn bão táp Tháng Tám, thật tự hào về đội ngũ kịch tác gia thoát thai từ những năm tháng rực lửa ấy. Trước năm 1945 kịch nói mới chỉ là nghệ thuật tài tử, bán chuyên nghiệp. Nghệ sĩ hầu hết là trí thức tiểu tư sản, các nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ yêu kịch hợp thành. Những tác giả nổi danh thời đó chỉ để tâm sáng tác kịch bản đề tài xã hội, kịch tâm lý khá là phổ biến, vấn đề, cốt chuyện dáng dấp như trong các tác phẩm văn học Tự lực văn đoàn, như Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long, Bạn và vợ của Nguyễn Hữu Kim, Ông Tây An Nam của Nam Xương, hoặc đề cập róng riết có tính xã hội nóng bỏng như Vi Huyền Đắc với kịch phẩm Kim tiền, Ông ký cóp... Nhân vật kịch hầu hết là những công tử, tiểu thư con nhà quyền quý, những kẻ mới nổi lên trong phong trào Âu hóa, hay những trí thức chán đời. Chỉ đến Cách mạng Tháng Tám trên sân khấu mới xuất hiện hình tượng của thế giới cần lao, dân cày, thợ thuyền, gương mặt các trang thanh niên giác ngộ cách mạng sục sôi ý chí chiến đấu vì dân, vì nước. Không còn những tiếng thở dài của những người bất đắc chí, của những tâm hồn chỉ biết “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” hồi nào. Giới cầm bút đã thức ngộ chân lý, cách mạng không những làm thay đổi bộ mặt xứ sở mà tái sinh cuộc sống của hàng triệu con người, những con dân yêu dấu của nước Việt, trái tim bừng sôi, lý trí ngời sáng, tràn ngập sức sống mới. Tinh thần cách mạng, ý thức công dân đã cho cảm xúc mãnh liệt thăng hoa, những ý tưởng mới lạ vụt sáng, mỗi trang bản thảo rừng rực không khí cuộc đổi đời chưa từng có trong lịch sử. Hiện thực rờ rỡ như trong giấc mơ. Nghệ sĩ tắm mình trong dòng thác cách mạng, trong giấc mơ lớn của chính cuộc đời mình. Những tác phẩm kịch ra đời trong những năm tháng ấy tuy chất lượng sáng tác chưa phải là cao (ngoài vở Bắc Sơn của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã được ca ngợi ngay từ năm 1946, được giới phê bình văn học kịch sau này khẳng định), nhưng vô cùng kỳ diệu là đã sản sinh một thế hệ kịch tác gia tài năng đầy tâm huyết với cách mạng, với đất nước mình, nhân dân mình, trung thành với lý tưởng cao đẹp của dân tộc, của Tổ quốc. Thế hệ kịch sĩ ngày ấy đã đặt nền móng cho nền sân khấu có gương mặt rạng ngời hôm nay, thôi thúc giới kịch nghệ thời đại mới sáng tạo, sáng tạo không ngừng với trái tim nghệ sĩ cháy bỏng cùng ý thức của người công dân nước Việt trong xu thế hội nhập toàn cầu, xây dựng một sân khấu tiên tiến, giàu bản sắc con người Việt Nam, dáng đứng Việt Nam.
NSƯT Vũ Hà
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.