Theo dõi Báo Hànộimới trên

Kẻ Mọc, vùng làng cổ bên sông Tô

THANHCHUNG| 30/07/2004 12:19

Vùng Nhân Mục xưa có tên nôm là Kẻ Mọc. Theo Quốc sử tạp lục thì hồi thế kỷ X, các làng Mọc đều có rừng, vậy mới có tên là Kẻ Mọc, tên chữ là Mộc Cự, sau đổi là Nhân Mục. Xã Nhân Mục dân số ngày càng đông, phát triển thành 2 xã là: Nhân Mục Cựu (gồm 2 thôn Thượng Đình và Hạ Đình) và Nhân Mục (gồm các thôn Quan Nhân, Cự Lộc, Chính Kinh, Giáp Nhất).

Ảnh: P.Thảo

Vùng Nhân Mục xưa có tên nôm là Kẻ Mọc. Theo Quốc sử tạp lục thì hồi thế kỷ X, các làng Mọc đều có rừng, vậy mới có tên là Kẻ Mọc, tên chữ là Mộc Cự, sau đổi là Nhân Mục. Xã Nhân Mục dân số ngày càng đông, phát triển thành 2 xã là: Nhân Mục Cựu (gồm 2 thôn Thượng Đình và Hạ Đình) và Nhân Mục (gồm các thôn Quan Nhân, Cự Lộc, Chính Kinh, Giáp Nhất).

Ngày nay, Nhân Mục Cựu đã là phố phường đông đúc, có khu công nghiệp Cao - Xà - Lá (cao su, xà phòng, thuốc lá) nổi tiếng của Hà Nội. Còn Nhân Mục Môn từ lâu được đổi thành xã Nhân Chính, và từ
1/1/1997 đã là phường.


Kẻ Mọc là những thôn làng cổ nằm trên bờ Nam Tô Lịch, phía ngoài luỹ thành đất Thăng Long. Thời chưa có đường nối từ Ngã Tư Sở đi Hà Đông, con đường lên Kinh Thành (từ Thanh Oai, Hoà Bình lên Thăng Long) chạy qua giữa Nhân Mục Môn, có chiếc cầu Nhân Mục Kiều bắc qua sông Tô Lịch. Tại Nhân Mục Kiều này từng diễn ra ba trận thắng giặc phương Bắc, là hai trận vua Lê Thái Tổ thắng quân Minh năm 1426, và trận vua Quang Trung thắng quân Thanh năm 1789. Từ khi mở quốc lộ từ Ngã Tư Sở đi qua Nhân Mục Cựu nằm trong cuộc đô thị hoá nhanh chóng. Và dần dần, ít người biết đến Nhân Mục Kiều (tên nôm là Cầu Mọc), bởi cầu mới qua sông Tô thuận lợi và đông vui. Cũng do vậy, Nhân Mục Cựu gần như không được coi là Kẻ Mọc nữa.

Nói đến Kẻ Mọc, người ta thường nghĩ đến Nhân Mục Môn. Các làng Mọc của Nhân Mục Môn vẫn giữ được nhiều nét quê truyền thống và nhiều di tích lịch sử. Thôn Giáp Nhất xưa có tên là Lý Thôn. Ông Nguyễn Trung, người Lý Thôn đỗ khoa thi Hội năm Quý Mùi 1583, là người khai khoa của Kẻ Mọc, nên Lý Thôn quê ông được gọi là Giáp Nhất. Đến nay, Giáp Nhất còn giữ được ngôi chùa Giáp Nhất cổ kính cùng với đình Giáp Nhất, là cụm di tích lịch sử văn hoá đẹp uy nghiêm. Tiếc thay, Giáp Nhất không còn giữ được Văn chỉ. Và ao Nghè là ao đẹp nhất thôn có người đỗ tiến sĩ đầu tiên trong vùng, dấu tích của một vùng quê hiếu học, cũng không còn giữ được trong thời kỳ đô thị hoá ồ ạt vừa qua.


Trong dân gian từ lâu đã truyền tụng câu ca: “Lắm lúa Kẻ Giàn, lắm quan Kẻ Mọc”. Kẻ Giàn chính là làng Trung Kính Hạ, một làng thuần nông giỏi thâm canh nên có năng suất lúa rất cao. Còn nói quan Kẻ Mọc là nói tới nhiều người Kẻ Mọc đỗ đạt được bổ làm quan. Bên Nhân Mục Môn, sau Nguyễn Trung con trai ông là Nguyễn Tuấn cũng đỗ đạt khoa. Chính bên Nhân Mục Cựu mới nhiều vị đỗ đạt khoa: Hai cha con Lê Đình Cử, Lê Đình Đại, rồi các ông Trương Thời, Lê Hoàng Tuyên, Nguyễn Huy Ngọc... đều là người thôn Hạ Đình. 

Ở bên Nhân Mục Cựu còn có danh sỹ Đặng Trần Côn, tác giả “Chinh Phụ Ngâm” bất hủ, từ thế kỷ XVII; nhà văn Lê Đình Dao với tác phẩm “Nhân trai văn tập” khá nổi tiếng đầu thế kỷ XIX; hoạ sỹ kiêm thi sỹ cuối thế kỷ XIX Lê Thúc Hoạch với tác phẩm nổi tiếng “Nông sự toàn đồ” với 23 bức tranh dưới có ghi 23 bài thơ mô tả cảnh lao động khó nhọc của nông dân...Sang thế kỷ XX, các nhà văn danh tiếng như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Lê Tràng Kiều cũng sống với Kẻ Mọc.


Một nét đặc biệt của vùng Mọc, đình làng hầu như là một di tích lịch sử: Đình Giáp Nhất là nơi thờ ông Phùng Luông, người có công cùng Bố Cái Phùng Hưng đánh đổ quân đô hộ nhà Đường thế kỷ VIII. Đình Quan Nhân thờ Trung Nghĩa Đại Vương, tức ông Hùng Lãng Công, người có công dẹp giặc Nam Chiếu. Cự Lộc và Chính Kinh chung một ngôi đình thờ Lã Đại Liệu, người có công giúp vua Thục chống quân Thục thuở xưa. Và cũng phải kể thêm một làng nữa vốn thuộc Kẻ Mọc xưa là Phùng Khoang, sau do vua Lê Dụ Tông chia lại địa hạt (1723) đã cắt thôn này sang sứ Sơn Tây.

Phùng Khoang có ngôi đình thờ ông Đoàn Thượng, một trung thần có công bảo vệ nhà Lý. Hội Mọc mùa xuân có từ lâu đời, là hội của 5 làng: Giáp Nhân, Quan Nhân, Chính Kinh, Cự Lộc, Phùng Khoang. Ca dao cổ vùng Mọc còn kể về hội Mọc: Làng Mọc mở hội tháng hai/ Rước hôm mười một, mười hai rõ ràng/ Nào là hương án long đình/ Phường bồng, phường trống rập rình theo sau...


Trong các lễ hội của làng cổ ven đô Thăng Long còn lưu lại được đến nay, hội Mọc là hội rất lớn, cứ 5 năm mở một lần. Mỗi một hội Mọc do một trong 5 làng đứng ra đăng cai. Ngoài 5 làng thay nhau làm chủ hội, còn hai làng nữa bao giờ cũng được mời tham gia hội Mọc đó là: làng Hoà Mục (làng kết chạ với Giáp Nhất) và làng Triều Khúc (làng giao hảo với Phùng Khoang). Như vậy, cứ sau 25 năm thì mỗi làng mới làm chủ hội một lần. Hội Mọc trong tâm thức Kẻ Mọc, là để cho Thành Hoàng 5 làng gặp gỡ, hàn huyên. Tương truyền, các vị đều là anh em với nhau và đều là anh hùng có công với nước.

Nghi thức tín ngưỡng của Hội Mọc là lễ rước. Những trai kiệu, trai cờ quần áo đẹp rực rỡ và mạnh mẽ, rất dân tộc. Cụ Nguyễn Bá Đạm ở Giáp Nhất kể cho chúng tôi nghe những ký ức lấp lánh về Hội Mọc năm 1935. Năm đó, trai kiệu áo nỉ đỏ, đầu quấn khăn mỏ rìu. Những cô gái làng Quan Nhân được cắt cử làm " trai kiệu" thì quần lính đen, chân đi bít tất trắng, áo cánh tiên, đầu chít khăn nhung.

Những cụ ông cao tuổi mặc áo thụng lam, đầu đội mũ tế có hai dải dài rủ xuống lưng. Các cụ bà mặc áo nâu nền nã, tay cầm phướn ngũ sắc, miệng nam mô tụng theo một giai điệu êm ả, nghiêm trang. Đám rước từng làng đều có cờ quạt, chiêng trống, bát bảo, hương án, long đình. Ngựa hồng, ngựa bạch con trước, con sau. Cả những cỗ voi cũng được kéo đi sau những cỗ kiệu lộng lẫy, uy nghi... Đúng là, "nhất vui mở hội năm làng/ Để cho thiên hạ phố phường ra xem..."


Sau năm 1953, Hội Mọc không có điều kiện tổ chức, nên nhiều người trẻ tuổi đã không biết tới Hội Mọc. Mãi đến năm 1996, Hội Mọc mới được mở trở lại. Hội Mọc năm đó, cụ Nguyễn Bá Đạm, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, quê Kẻ Mọc làm một thành viên chủ chốt của ban tổ chức lễ hội. Đến nay, cụ vẫn tự hào rằng, Hội Mọc ngày nay thực sự làm sống lại sức sống dân dã Kẻ Mọc. Hội Mọc còn lưu giữ mãiđược tinh hoa truyền thống, để mai sau có nhắc đến Hà Nội, sông Tô, thì người ta lại nhớ đến tự hào về vùng thôn làng cổ ven Thăng Long: đất Kẻ Mọc.


Lan Anh

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Kẻ Mọc, vùng làng cổ bên sông Tô

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.