Thời xưa, đã có nhiều thi nhân viết về hồ Hoàn Kiếm. Nhiều người chỉ mượn cảnh hồ Hoàn Kiếm mà nói tâm trạng mình trước thế gian biến cải nhưng có 3 bài thơ viết về Hoàn Kiếm, ai đã đọc một lần thì khó quên.
Xưa, hồ Hoàn Kiếm ở gần thôn Tả Vọng, người ta gọi là hồ Tả Vọng, lại trông màu nước xanh lục, có thời gọi là hồ Lục Thuỷ. Tên hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm) có từ thời Lê.
Tương truyền, Nguyễn Thận làm nghề chài lưới trên một khúc sông vùng Lam Sơn, một đêm thấy có hào quang hình rùa từ đáy sông chiếu lên, bèn quăng chài xuống, khi kéo lên được một lưỡi kiếm thần, trên kiếm có khắc hai chữ Thuận Thiên.
Ông đã dâng Lê Lợi. Từ đó, kiếm này gọi là kiếm Thuận Thiên. Sau, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế cũng lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Một hai ngày sau, người nhà Lê Lợi lại thấy ở trong vườn có chiếc ấn báu khắc tên họ Lê Lợi và dưới một gốc đa có cái chuôi kiếm. Lê Lợi cho lắp lưỡi kiếm vào chuôi, thấy khớp. Đó là điềm trời ban ấn kiếm, giáng mệnh thiên tử.
Sau đại thắng, Lê Thái Tổ phải lo nhiều việc: định quốc hiệu là Đại Việt, ấn định luật lệ, mở khoa thi, tìm hiền tài: “Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến cử... Nếu người nào có tài năng, tri thức văn võ, có thể cai trị dân chúng, thì trẫm sẽ tuỳ tài bổ dụng”.
Trong trăm nghìn công việc, có việc giảm binh. Đúng vào ngày Rằm tháng Tám, sau khi tế lễ trời đất, vua tôi lên thuyền du ngoạn hồ Tả Vọng. Lúc ấy, bỗng mưa to sấm chớp, rùa vàng bơi lên. Linh cảm, biết là rùa đòi kiếm, vua bèn trả. Lập tức, mưa tạnh, trời xanh chim lượn, thuyền rồng và thuyền các quan lại đua bơi, trăm họ vui ca. Rùa vàng lại bơi lên như hân hoan mừng nước non đại định.
Thời xưa, đã có nhiều thi nhân viết về hồ Hoàn Kiếm. Có một số tác giả chỉ mượn cảnh hồ Hoàn Kiếm mà nói tâm trạng của mình trước thế gian biến cải. Nhưng có 3 bài thơ viết về Hoàn Kiếm, ai đã đọc một lần thì khó quên.
Trước hết là bài thơ Hoàn Kiếm hồ của Đinh Liệt.
Đinh Liệt, quê Đông Cao, Nông Cống, nay là Triệu Sơn, Thanh Hoá. Mười lăm tuổi, ông đã theo Lê Lợi. Khởi nghĩa, bàn mật, đầu tiên có 4 người, Đinh Liệt trong số đó.
Danh sách những người có mặt tại hội thề Lũng Nhai (1416) thì Đinh Liệt được ghi ở vị trí số 3: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt, rồi mới đến Nguyễn Thận, Lê Ngân, Lê Liễu, Trịnh Khả, Lê Sát... Tất cả 22 người. Hai mươi tám tuổi, ông đã là đại công thần, giữ chức Suy trung Tán trị Hiệp mưu Bảo chinh công thần Vinh lộc đại phu Tả kim ngô Đại tướng quân, tước Đình Thượng Hầu.
Đinh Liệt thích bộc bạch bằng thơ, nhưng ông thường chỉ để tự di dưỡng tinh thần và cất đi, cho con cháu sau này đọc. Những bài thơ đó nằm trong Ngọc phả, mà Ngọc phả của tộc Đinh này có số phận khá truân chuyên.
Theo tộc Đinh ở Đông Cao, cuối thế kỷ XVIII, một chi họ Đinh từ Thanh Trì đến mượn Ngọc phả, từ đấy bị thất lạc, mãi đến năm 1953, ông Đinh Quốc Bảo- hậu duệ Đinh Liệt mới tình cờ tìm được Đinh tộc Ngọc phả tại một thư viện ở Quảng Châu, Trung Quốc. Ông Quốc Bảo đã nhờ người mượn, chép lại. Vậy bài thơ Hoàn Kiếm hồ cũng đã yên vị trong Ngọc phả của Đinh tộc Đông Cao trên 300 năm, sau đó là gần 200 năm chu du, lưu lạc... Năm bảy năm lại đây, bạn đọc mới được đọc thơ Đinh Liệt.
Thú nhất là Đinh Liệt có ghi bài thơ Hoàn Kiếm hồ viết vào ngày 15 tháng 8 năm Mậu Thân 1428, có nghĩa là viết ngay trong không khí của buổi lễ trả kiếm.
Hoàn Kiếm hồ
Nguyễn Thận hiến thần kiếm/ Vương gia phương kiếm bính/ Chân thiên thiện an bài/ Thập nhị thiên đại định/ Hoàng đế phụng thiên mệnh/ Bách tính đắc an cư/ Triều đình tân thiết lập/ Nông tang khởi phong thu/ Bang giao chính khai triển/ Hồi ức lạp tuyên từ/ Hồi ức Lam Sơn vãn/ Thiên hạ trương thái hoà/ Tinh giảm binh thập vạn/ Quân thần ngoạn Tả Vọng/ Thuận Thiên hoàn kiếm thời/ Không trung khai lôi vũ/ Biếm nhân nhật trùng lai/ Kim quy quẫn du vịnh/ Thanh thiên điểu tường phi/ Quần thần hoan tuyển tiếu/ Bách tính hô vạn tuế/ Hạnh phúc thái bình ca/ Ngoạn du thi nhất thủ/ Ân trạch nhuận vạn gia.
Tạm dịch: Hồ Hoàn Kiếm
Nguyễn Thận dâng kiếm thần/ Vương gia được cán cầm/ Chân thiện, trời sắp đặt/ Đại định mười hai năm/ Hoàng đế vâng mệnh lớn/ Trăm họ được an vui/ Thiết lập triều đình mới/ Lúa dâu tốt bời bời/ Đường bang giao khai triển/ Ngẫm đúng như lời nguyền/ Nghĩ Lam Sơn ước vọng/ Thiên hạ mừng bình yên/ Tinh giảm mười vạn binh/ Vua tôi vui Tả vọng/ Lúc trả kiếm Thuận Thiên/ Bỗng mưa òa sấm động/ Mây qua mau, quang tạnh/ Rùa vàng bơi gần xa/ Trời xanh, chim nghiêng lượn/ Quần thần cười khuây khoa/ Trăm họ hô vạn tuế/ Hạnh phúc thái bình ca/ Thơ một bài, ghi lại/ Ân trạch thấm muôn nhà.
Đó là những vần thơ ứng tác, tả thực, có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, có giá trị soi sáng cho nhiều trang sử. Trả kiếm trong dịp tinh giảm mười vạn binh. Hướng dân vào nông tang. Ngẫm lại, càng thấy Lê Lợi quả là anh minh siêu việt.
Thơ về hồ Hoàn Kiếm có 2 bài nữa, tiêu biểu, đều thất ngôn bát cú luật Đường, của Đoàn Nguyễn Tuấn và Phạm Quý Thích.
Đoàn Nguyễn Tuấn (sinh năm 1750) là anh vợ Nguyễn Du, người Quỳnh Côi, Sơn Nam, nay là Quỳnh Phụ, Thái Bình. Ông đỗ Tiến sĩ, nổi tiếng về văn chương, làm quan triều Nguyễn, chức Tả thị lang Bộ Lại, tước Hải Phái Hầu.
Đoạn trích bài thơ Kiếm hồ ánh lên sao Đẩu (Kiếm hồ đẩu xạ) sau đây rút từ Hải Ông thi tập – tập thơ chữ Hán còn lại của ông:
Bao lần vui chiến thắng hoa nở sắc xuân/ Tiếng sương thu rơi nghe như tiếng khóc của tù binh - giặc thuở trước/ Trải qua biến thiên, hồ Gươm vẫn như xưa/ Oai trời từ đó còn vẽ bức tranh mây nước... (Hoa khai xuân sắc hoan trùng khải/ Sương lạc thu thanh khốc tặc phù/ Thương hải tang điền hồ tự nhược/ Thiên uy do hoạ thuỷ vân đồ).
Phạm Quý Thích, người Hoa Đường, huyện Đường An, nay thuộc Bình Giang, Hải Dương, đỗ Tiến sĩ, làm quan triều Nguyễn, chức Trung thư học sĩ. Ông để lại 6 tập sách. Trong Thảo Đường thi tập của ông có 4 bài về Hồ Gươm, bạn đọc thường thích bài Hồ Gươm I.
Tạm dịch: Bờ lau sóng táp hồi hồi/ Thành xưa chung bóng trăng soi chập chờn/ Còn nguyên huyết mạch nước non/ Vòm trời vẫn sáng đâu mòn Đẩu, Ngưu... (Lô ngạn đào thanh tần xuất nhập/ La thành nguyệt sắc cộng bồi hồi/ Sơn hà huyết mạch nhưng tương quán/ Ngưu đẩu hàn quang thượng vị mai).
Viết về hồ Hoàn Kiếm, ngẫm tới nguyên khí, đại định, những vang vọng của chiến công lừng lẫy... , những bài thơ trên có nét chung là sống động, giàu hào khí.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.