Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì tài sản quí nhất của điện ảnh Việt Nam có lẽ là nguồn nhân lực gồm các đạo diễn, nhà biên kịch, chủ nhiệm phim, quay phim… được đào tạo bài bản ở nước ngoài và trong nước.
Làm phim truyền hình. Ảnh chỉ mang tính minh hoạ
Cơ sở vật chất để làm phim thiếu thốn, nhà xưởng xập xệ, vài ba chiếc máy quay quá cũ, thiết bị thu âmlạc hậu đến mức bán được một bộ phim cho nước ngoài nhưng bị trả lại vì chất lượng âm thanh không theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống rạp ở địa phương cũ nát, ghế ngồi xộc xệch,không có hệ thống cách âm, thậm chí rạp chiếu phim ở thị trấn Đoan Hùng (Phú Thọ) còn lợp bằng lá cọ. Dù kinh tế thời kỳ này vô cùng khó khăn nhưng Nhà nước vẫn cố gắng cấp kinh phí để một năm sản xuất dăm phimtruyện nhựa đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu thưởng thức phim ảnh của người dân. Bên cạnh đó Nhà nước cũng “lờ” đi chonhà sản xuất tư nhân bỏ tiền mua “mũ” các hãng Nhà nước để sản xuất phim truyện nhựa, phim truyện video
Ngày 26-12-1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ký Chỉ thị 417/CT về sắp xếp lại ngành điện ảnh, tạo cơ sở và điều kiện để các đơn vị trong ngành điện ảnh sản xuất, phổ biến phim, lưu trữ… giúp ngành điện ảnh tháo gỡ một số khó khăn nhưng cũng chưa đáp ứng hết được nhu cầu phát triển. Cơn lũ băng phim video từ nước ngoài tuồn vào, hệ thống đại lí băng hình bị thả nổi, hành lang pháp lí không có dẫn đến tình trạng phim bị ăn cắp bản quyền một cách ngang nhiên làm nhà đầu tư trong nước vỡ nợ. Đạo diễn Kim Chi vay tiền làm phim truyện video “Chị em sinh đôi” phải khốn đốn vì phim đang chiếu tại Hà Nội nhưng đã có băng lậu ở thị xã Thái Bình. Người dân thích thuê băng về nhà xem hơn là đến rạp, vì rạp vừa nóng vừa hôi. Tôi nhớ phim Bá Vương biệt cơ của đạo diễn Trần Khải Ca (Trung Quốc) rất hay song chiếu ở rạp Tháng 8, rạp tốt nhất Hà Nội lúc đómà có xuất chỉ có 5 cụ bà vừa xem vừa cắn hạt bí. Điện ảnh Việt Nam đứng trước nguy cơ bị xóa sổ. Trước thực trạng đó, ngày 17-7-1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 48/CP về tổ chức và hoạt động điện ảnh. Nghị định đã đề cập toàn diện các lĩnh vực hoạt động của ngành này, từ sản xuất, phổ biến, lưu trữ, đào tạo… Theo các nhà hoạt động điện ảnh thì Nghị định mang tính “cởi trói” này sẽ tạo cơ hội cho điện ảnh Việt Nam phát triển. Cùng với Nghị định 48, Chính phủ cũng thông qua chương trình “Mục tiêu về Điện ảnh” với số tiền đầu tư dự kiến là 265 tỉ đồng để “chấn hưng” điện ảnh Việt Nam. Chương trình này cũng đưa ra mục tiêu là cung cấp 50% phim truyện nhựa phát trên sóng truyền hình. Ngay sau khi Nghị định có hiệu lực, Bộ VH-TT đã ban hành 3 thông tư hướng dẫn chi tiết để Nghị định sớm đi vào cuộc sống. Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn eo hẹp mà Chính phủ đã đầu tư một số tiền lớn như vậy cho điện ảnh chứng tỏ Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến các hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Chương trình ‘Mục tiêu về Điện ảnh” được chia làm 2 giai đoạn. Trong giai đoạn 1995-2000 ngành VHTT triển khai: Trang bị tiền kỳ cho các hãng sản xuất phim; Sản xuất phim lớn; Trang bị đầu video 100 inches cho các đội chiếu bóng lưu động; Cấp thiết bị lồng tiếng dân tộc; Chống xuống cấp và cải tạo rạp chiếu bóng ở địa phương và đào tạo cán bộ kỹ thuật, nghệ thuật và cán bộ quản lí. Số tiềnđầu tư thiết bị sản xuất phim là khoảng gần 44 tỉ cho 3 hãng phim truyện (Hãng phim truyện Việt Nam 9,48 tỉ đồng, Hãng phim Giải Phóng 12,12 tỉ đồng và Hãng phim truyện I 2,95 tỉ đồng), Hãng phim Hoạt hình Việt Nam 2,5 tỉ, Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương 7,44 tỉ và Trung tâm kỹ thuật điện ảnh 5,88 tỉ. Đầu tư 15,178 tỉ để sản xuất 5 bộ phim truyện nhựa (Đất nước đứng lên,Tổ quốc tiếng gà gáy trưa, Hà Nội mùa đông năm 1946, Điện Biên Phủ trên không và Ngã ba Đồng Lộc) và 1 bộ phim tài liệu nhựa “Hồi ức Điện Biên”. Giai đoạn này cũng dành tới 44,27 tỉ đồng để xây mới và nâng cấp 43rạp chiếu bóngvà mua sắm trang thiết bị chiếu phim nhựa lập thể và video 300 inches .Giai đoạn 2001-2005, chương trình chấn hưng điện ảnh tập trung vào 3 nội dung chính trong đó đầu tư tiếp 45,14 tỉ đồng cho thiết bị máy móc cho 3 hãng phim truyện; Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương; Hãng phim Hoạt hình Việt Nam và Viện Phim Việt Nam. Đầu tư 31,09 tỉ đồng cho khu vực phổ biến phim gồm mua máy chiếu phim nhựa 35mm âm thanh lập thể; Máy chiếu lưu động 35mm; Đầu tư thiết bị lồng tiếng in sao băng… Cuối cùng là 6,71 tỉ đồng cho đào tạo, nâng cao trình độ sử dụng công nghệ hiện đại .
Giữa tháng 8-2006, tôi đi công tác về vùng núi của các tỉnhQuảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, hỏi người dân địa phương thi thoảngcó ai mang phim về chiếu không, thì họ lắc đầu. Tôi hiểu là các đầu video là đồ điện tử, lại được trang bị từ lâu, hỏng chỉ còn cách bỏ xó vì huyện miền núi lấy tiền đâu để sửa. Với phim nhựa lại càng khó khăn hơn. Năm 2005, các hãng phim Nhà nước sản xuất được 10 bộ phim truyện nhựa, thế nhưng dù đã có thông tư là chiếu miễn phí 100% cho bà con vùng cao và 50% cho vùng nông thôn nhưng qua tìm hiểu của chúng tôi ở tỉnh Quảng Trị thì họ thích xem phim Hàn Quốc trên truyền hình hơn vì phim Việt Nam không hay. Chiếu bóng lưa thưa ở vùng sâu, vùng xa cũng dễ hiểu nhưng ngay tại thành phố Đồng Hới của tỉnh Quảng Bình, các rạp ở Đà Nẵngcũng vắng khách. Đầu tư cho phổ biến phim khá lớn mà người dân không được xem phim, kể cả các phim nhập từ nước ngoài có lãng phí không ? Không biết ngành Điện ảnh khi đưa ra chương trình chấn hưng có tính đến sự phát triển của truyền hình ?
Trả lời câuhỏi: “Tại sao Việt Nam có Trung tâm kỹ thuật điện ảnh nhưng phim “Ký ức Điện Biên” hay vài phim khácphải làm hậu kỳ ở Thái Lan ?”, các đạo diễn được hỏi cho rằng: Thiết bị in tráng và thiết bị lồng tiếng của Trung tâm này rất hiện đại nhưng “Y phục không xứng kỳ đức”, trình độ của kỹ thuật viên lại thấp nên phim rất “bụi”sau khi in tráng ở đây. Đã may được cái áo,còn cái dải sao không may nốt cho trọn vẹn ? Các hãng phim tư nhân như Thiên Ngân, Phước Sang làm hậu kỳ ở nước ngoài là điều dễ hiểu nhưng phim làm bằng tiền Nhà nước lại làm hậu kỳ ở nước ngoài trong khi Việt Nam có Trung tâm kỹ thuật có lãng phí không ? ở nhiều nước, các hãng phim hầu như chẳng có gì ngoài con người. Sau khi hoàn tất các bước để sản xuất, họ sẽ thuê máy móc, thiết bị, ánh sáng… của các cơ sở dịch vụ. Thế nhưng ở Việt Nam, người ta lại không làm theo mô hình như vậy, hãng nào cũng được cấp máy quay từ chương trình “Mục tiêu về Điện ảnh”. Một chiếc máy quay ARIFLEX 3 (4) giá trên dưới 3 tỉ đồng,một năm sử dụng quay 2 - 3 bộ phim xong cất vào kho quả là lãng phí.Không những thế, Trung tâm kỹ thuật có thiết bị in tráng, lồng tiếngnhưng người ta vẫn trang bị thiết bị dựng, lồng tiếng hòa âm cho Hãng phim truyện Việt Nam là thế nào ?
Hơn 200 tỉ để vực điện ảnh Việt namlà cố gắng lớn của nhà nước, tuy nhiên số tiền đó lại bị đầu tư dàn trải nên hiệu quả củachương trình “Mục tiêu về Điện ảnh” không được như mong muốn.Trong “Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Điện ảnh” do UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng trình bày trước kỳ họp Quốc hội cuối năm 2005 có đoạn: “Điện ảnh nước ta vẫn đang trong tình trạng kém phát triển, tụt hậu so với các nước trong khu vực cũng như thế giới, qui mô sản xuất nhỏ, kỹ nghệ lạc hậu, kỹ xảo điện ảnh đơn giản, số lượng phim sản xuất nhỏ bé, chất lượng phim không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng dân cư”. Thông tin mớilà người ta lại tiếp tục đầu tư hơn 60 tỉ đồng cho một hãngđể sản xuất phim Khoa học. Việt Nam có nhiều công trình khoa học lắm đâu vì công nghệ chủ yếu nhập từ nước ngoài từ nhiều năm nay. Lại thêm một sự lãng phí ?.
Ngọc Tiến- Anh Tuấn
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.