(HNM) - Năm 2010, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hầu như không có lũ khiến mực nước trung bình thấp hơn cùng kỳ nhiều năm trước khoảng 1m. Nhiều nhà khoa học khẳng định, ngoài lý do thiên tai, hiện tượng trên có nguyên do từ sự phát triển ồ ạt các dự án xây đập thủy điện (ĐTĐ) phía thượng nguồn.
Việc xây dựng nhiều đập thủy điện trên dòng Mê Kông tác động lớn đến dòng chảy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. |
Bùng nổ đập thủy điện
Sáu quốc gia có dòng Mê Kông chảy qua (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam) đang tận dụng những nguồn lợi từ con sông hùng vĩ này cho mục đích phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, trong đó thủy điện được xác định là nguồn tiềm năng lớn. Đến nay, đã có 12 dự án ĐTĐ trên dòng chính chảy qua lãnh thổ Thái Lan, Lào và Campuchia. Bên cạnh các dự án trên dòng chính còn có khoảng 120 dự án thủy điện quy mô vừa và nhỏ trên các chi lưu của sông Mê Kông với tổng công suất khoảng 2.600MW.
TS Đào Trọng Tứ, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy hội sông Mê Kông (MRC) cho biết, Trung Quốc hiện sở hữu tới 31% diện tích lưu vực, 16% lưu lượng nước, 2.000/4.800km chiều dài sông với độ cao hơn 4.000m so với mực nước biển, có tiềm năng 23.000MW. Nước này hiện đang xây dựng bốn ĐTĐ lớn là Mạn Loan, Tiểu Loan, Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng và có kế hoạch xây tiếp hơn chục dự án khác.
Sông Mê Kông dài 4.800km, tạo ra một lưu vực rộng lớn hơn 795.000km2. Việt Nam là nước cuối nguồn sông Mê Kông, nơi phù sa và nguồn nước dồi dào đã tạo nên một vùng châu thổ phì nhiêu, cung cấp nguồn sống cho khoảng 20 triệu cư dân. Nguồn: PanNature |
Theo báo cáo "Đánh giá môi trường chiến lược về thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông" do Trung tâm Quốc tế về quản lý môi trường (ICEM) công bố tháng 10-2010, "việc thực hiện bất kỳ hay mọi dự án đề xuất trên dòng chính thuộc hạ lưu sông Mê Kông đều có thể gây tác động sâu sắc và rộng khắp về kinh tế - xã hội và môi trường ở tất cả bốn nước ven sông". Trong khi đó, Trung Quốc, Myanmar đến nay vẫn chưa là thành viên MRC. Báo cáo cũng nhấn mạnh "thủy điện dòng chính ít có ý nghĩa quan trọng đối với các ngành năng lượng của Thái Lan và Việt Nam", trong khi "sẽ góp phần gia tăng sự mất cân bằng ở các nước hạ lưu sông Mê Kông" và "sẽ có những tác động tiêu cực đến các ngành thủy sản và nông nghiệp". Do đó, "trong trung hạn và ngắn hạn, đói nghèo sẽ trở nên trầm trọng hơn do ảnh hưởng của bất kỳ một dự án dòng chính nào, đặc biệt là đối với người nghèo ở các khu vực nông thôn và thành thị ven sông".
Theo TS Lê Anh Tuấn (ĐH Cần Thơ), bên cạnh sự tác động làm giảm phù sa và lưu lượng nước từ các con đập, kế hoạch mở rộng hệ thống canh tác nông nghiệp ở Campuchia cũng gây suy giảm lượng nước cung cấp cho ĐBSCL trong tương lai. Hiện trạng sạt lở bờ sông và xâm thực bờ biển ở ĐBSCL gần đây có nguyên do từ sự thay đổi dòng chảy từ thượng lưu sông Mê Kông.
Việt Nam ứng phó ra sao?
Tại buổi đối thoại chính sách "Phát triển ĐTĐ trên sông Mê Kông và thách thức đối với Việt Nam" do Trung tâm Con người và Thiên nhiên - PanNature (Liên hiệp Các hội KHKT Việt Nam) phối hợp với mạng lưới sông ngòi Việt Nam tổ chức mới đây, nhiều ý kiến cho rằng các dự án thủy điện ở thượng lưu đặt ra thách thức to lớn cho Việt Nam, cụ thể là ĐBSCL về nhiều mặt.
TS Jeremy Carew-Raid (ICEM) cho rằng, Việt Nam không nhất thiết phải phản đối các dự án thủy điện từ thượng nguồn. Thay vào đó, Việt Nam nên có tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ khuyến nghị của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, theo đó quyết định về các con đập trên dòng chính cần được hoãn lại trong khoảng thời gian 10 năm. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam không nên tham gia các hoạt động đầu tư, phát triển đập thủy điện dòng chính cũng như các cam kết mua bán điện từ các dự án này. Chính phủ cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu, đánh giá, đối thoại và tăng cường các cơ chế hợp tác để cân nhắc việc xây đập hay không.
Do Mê Kông là một con sông quốc tế, GS-TSKH Nguyễn Ngọc Trân (Trung tâm Nghiên cứu phát triển ĐBSCL) khuyến nghị các dự án chuyển nước phải được sáu quốc gia nghiên cứu kỹ lưỡng, tốt nhất là đặt chúng trong một quy hoạch tổng thể về lưu vực sông. Ngoài ra, số liệu khí tượng thủy văn, chế độ vận hành của các đập trong lưu vực sông Mê Kông phải được chia sẻ giữa các nước.
Chính phủ các nước Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia đã ký kết Hiệp định Phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông từ năm 1995. Việt Nam đang tích cực tham gia quá trình xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lưu vực, các bộ thủ tục và chỉ dẫn để tạo ra các công cụ và thể chế giúp cải thiện quá trình tham vấn, đàm phán và hợp tác phát triển giữa các quốc gia ở hạ lưu nhằm tăng cường lợi ích và giảm thiểu rủi ro từ các dự án phát triển.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.