Theo dõi Báo Hànộimới trên

Đọc sách: Thi tửu

ANHTHU| 22/02/2008 08:50

(HNM) - Bỗng một hôm có người chợt nhớ rằng thơ ca dân tộc mình có một đề tài ít lâu nay đã phủ bụi thời gian. Rồi người ta giục nhau, phân công nhau sục tìm những bài viết về đề tài ấy. “Thi tửu”, tập thơ do NXB Hội Nhà văn ấn hành cuối năm 2007 được trình làng vì lẽ đó…

Độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm, từ rượu mà có thơ, nói sao cho hết trong vài cột báo ngắn ngủi. Cho nên, xin rước cụ tiên chỉ Nguyễn Du ngồi chiếu trên. Bài thơ thất ngôn “Đối tửu”, được nhà thơ Ngô Văn Phú dịch ra một cách chững chạc, gợi lại nỗi buồn của một người “độc ẩm” trong cảnh bất đắc chí “hoa rụng, rêu bày”, “oanh vút mất”. Không khác Nguyễn Du là mấy, có chăng là ở chất “ngông”, “Lại say” của Tản Đà viết lúc say, biết say là “hư đời” mà vẫn coi “cái say là sướng thế”, mặc cho “vợ khuyên chồng” mà “ai dễ đã chừa say”.

Vũ Hoàng Chương nâng ly lên rầu rĩ (có lẽ vì không còn Kiều Thu “Tố của Hoàng” bên cạnh): Em ơi, lửa tắt bình khô rượu/Đời vắng em rồi say với ai? Cũng tâm trạng ấy, khi người đẹp xứ Quảng trở về thôn Vĩ Dạ ở Cố đô, Hàn Mặc Tử đã “Say chết đêm nay” vì nàng xa từ thuở vu qui, đến nỗi nhắp xong chén rượu buồn vào tận gan. Với “Mĩ tửu ca”, Bích Khê tỏ ra tỉnh táo hơn :Trăm năm vui được mấy hồi/ Rượu ngon còn đó còn mời Vương Tôn. Mời Vương Tôn để ngó đôi mắt ngọc thì quên bụi hồng…

Với Trần Huyền Trân, thường có dịp đối ẩm với Tản Đà thì uống rượu là dịp bộc bạch tâm sự, là để rót đau lòng ấy vào đau lòng này. Đấy là nỗi đau nhân thế của lớp người cùng trong giai đoạn nhiễu nhương, những trí thức nghèo đi chán về chê xuồng đời.

Tản Đà giờ đã nằm trong mộ trên đất quê hương nhưng nhà thơ Ngô Quân Miện, cùng quê Khê Thượng (Sơn Tây) với cụ, khi đến trước mộ cụ thấy nậm rượu đắp bằng vôi vữa ở đó đã xúc cảnh sinh tình mà rằng : Nằm giữa quê xanh có khát thèm/ Bời bời mây gió đến vô biên/Hứng trăng be rượu đầy thi tứ/ Cạn chén cùng ai sẻ nỗi niềm.

Lúc Tản Đà còn sống, nhà thơ Nguyễn Hữu Hiếu đã cất công mang rượu thịt đến để mong được đối ẩm, tiếc thay cụ đã về xuôi. Nguyễn Hữu Hiếu đành Ngồi trông núi Tản sông Đà/ Tưởng chừng như bác vẫn là còn đây/ Rót từng cốc rượu nâng tay/ Vắng ai mời rượu đưa cay cũng tình. Trông cảnh nhớ người, vắng người mà vẫn rót rượu dâng, quý thay tấm tình tri kỷ!

Rượu trong thơ của nhà thơ xứ Nghệ Nguyễn Trọng Tạo lại có màu sắc riêng, ý thâm trầm, sâu lắng, như trong bài “Huế 1” chỉ có hai câu: Sông Hương hóa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đến đài ngả nghiêng say. Cùng chung dòng sông ấy, tại sao nhà thơ uống mà không say, còn những lâu đài ở đất Cố đô sâu rễ bền gốc mà chao đảo trước biến thiên thời cuộc?

Thường thì “rượu vào lời ra”, không tiếng bấc cũng ra tiếng chì. Nhưng trong “Thi tửu” không có bóng dáng chuyện nhân tình thế thái, thế sự thăng trầm dù là rượu phạt hay…rượu ngâm rắn. Các nhà thơ đàn anh như Trần Lê Văn, Quang Dũng, Vũ Cao, dù tứ ẩm hay đối ẩm ngày xuân, ở miền xuôi hay mạn ngược, đều để cho cái vui tràn đầy cốc rượu. Nhà thơ lớp sau, đã có nhiều thơ được đăng như Vân Long, Hoài Anh, Trần Ninh Hồ, Lưu Quang Vũ, Võ Văn Trực, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thanh Kim…cóthơ về rượu nhưng giọng vẫn rất tỉnh. Nói chung, thơ về rượu trong “Thi tửu” đa phần ý, lời đều có chọn lọc, chắt gạn, dù đôi khi có “chếnh choáng” nhưng không nghiêng ngả, như Tạ Hữu Yên “say mà say ngọt” trong bài“Ly đầy”.

Trong số trên trăm thi sĩ tửu đồ có một nhà thơ không uống mà say, ông nhìn người say với cái nhìn rất tỉnh giấu kín sau nụ cười hóm hỉnh của một cây bút có hạng trong đội ngũ nhà thơ trào lộng. Đó là Yên Thao khi ngắm tranh “Lý Thiết Quài”. Bằng lối đặc tả giàu hình tượng, nhà thơ vẽ họ Lý rất sinh động, giống hệt ngoài đời : nào là “vểnh râu”, “xắn tay áo dốc ngược bầu”, nào là “guốc gỗ”, “gậy tre”, “la đà”, cái điệu bộ của người say để mặc cho Gió mơn bụng hở, trăng kề rốn sâu.

Không thể quên trường hợp đặc biệt là hai nữ thi sĩ tửu đồ Nguyễn Thị Ngọc Hà và Nguyễn Thị Mai. Vào cái thời còn trọng nam khinh nữ xưa, có câu “nam vô tửu như kỳ vô phong” nhưng không cần có gió mới có rượu, hai nhà thơ nữ đến với rượu để nói lên tâm sự có gì đó buồn bã, xót xa, để tự dối mình, tự đau cái đau riêng mình : Vút lên bỗng hóa thành sương/ Chạm gió?Toát mồ hôi đá/ Chạm mưa/ Mưa ngập đầy đường. Hay Chiều nay không phải chiều đông/áo đơn áo kép mà lòng rét run.

Đến đây, xin mượn câu sáo ngữ “Văn bất tận ngôn” để ngưng bài viết đã quá dài mà vẫn muốn nói thêm.

Hoài Việt

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Đọc sách: Thi tửu

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.