(HNM) - Cũng như các tỉnh, thành phố khác ở Đồng bằng Bắc bộ, Hà Nội cũng có di sản đê. Tuy nhiên, di sản đê Hà Nội có các giá trị khác biệt, không chỉ là những con đê đầu tiên, đê Hà Nội còn trở thành đường phố.
Đê Hà Nội xưa và nay
Theo sử sách, đê ở miền Bắc có từ đầu thế kỷ thứ VI, tuy nhiên nó không cao như bây giờ mà chỉ là các bờ bao, bờ vùng phục vụ cho việc chắn nước cục bộ trong phạm vi hẹp của một khu vực dân cư. Khi Lý Công Uẩn chọn vùng đất vốn trước đó là thành Đại La làm Kinh đô và đặt tên là Thăng Long thì việc đắp đê ngăn nước vào mùa lũ càng trở nên quan trọng. Năm 1078, nước sông Tô Lịch dâng cao hơn mặt đê khiến nước tràn vào đến cửa Đại Hưng (khu vực Cửa Nam hiện nay). Song mối đe dọa lớn nhất không phải là sông Tô Lịch, Kim Ngưu mà là sông Nhĩ Hà (sông Hồng) nên năm 1108, vua Lý Nhân Tông đã cho đắp con đê đầu tiên ngăn nước sông Hồng hung dữ với thành Thăng Long tại phường Cơ Xá (khu vực Nghi Tàm ngày nay).
Mùa lũ năm 1930 - Đê Yên Phụ là ranh giới mong manh giữa sông Hồng và Hồ Tây. Ảnh tư liệu |
Nhưng ngược dòng thời gian, thành Thăng Long (trên nền thành Đại La) đã có đê bảo vệ. Năm 824, chính quyền đô hộ nhà Đường dời phủ từ Long Biên về huyện Tống Bình gần sông Tô Lịch và đắp một hệ thống thành gọi là La Thành. Năm 886, nhà Đường cho sửa lại đê La Thành gồm 4 mặt, dài 1.982 trượng linh 5 thước (7.930 mét), cao 2 trượng linh 6 thước (10,4 mét). Ít lâu sau, nước sông Tô Lịch và sông Hồng dâng cao và tràn vào phủ trị, nhà Đường lại cho đắp đường đê bao bọc ngoài phủ dài 2.125 trượng (8.500 mét). Con đường từ Hoàng Hoa Thám đến Cầu Giấy hiện nay chính là dấu tích của con đê cách đây hơn 1.000 năm.
Gọi là đê nhưng đê Cơ Xá không cao như bây giờ nên vào những năm nước lên to, nhiều khu vực trong kinh thành bị ngập úng. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", năm 1265, nước ngập phường Cơ Xá. Năm 1270, nước to đến mức đi lại trong thành phải dùng thuyền. Từ đó, việc đắp đê càng được coi trọng và không chỉ đắp đê bảo vệ Thăng Long mà nhiều tỉnh khác cũng phải đắp đê để bảo vệ mùa màng, làng xóm. Tuy nhiên, đê thời Lý chưa có quy hoạch. Đến đời Trần, những năm 1238 - 1243, nước vẫn tràn vào kinh thành nên năm 1248, vua Trần Thái Tông lập ra quan Hà đê, có chánh sứ và phó sứ phụ trách đê điều tại các lộ, phủ. Nhà Trần đã cho đắp đê từ đầu nguồn tới cuối nguồn gọi là đê quai vạc. Đây là bước ngoặt trong lịch sử thủy lợi Việt Nam. Đê quai vạc không chỉ được đắp tại Đồng bằng sông Hồng mà còn được thực hiện tại Thanh Hóa, Nghệ An. Tuy nhiên, đê thời Trần không cao và Nhà nước đắp đê với mục đích để nước không tràn vào đồng. Đến triều Lê Sơ (1428-1527), cùng với việc cho đắp những con đê mới lớn hơn, họ cũng cho tôn tạo hệ thống đê cũ hai bờ sông Nhĩ Hà bằng đất, đá để bảo vệ Thăng Long. Vua Lê Thánh Tông cũng đặt ra chức quan "Hà đê" để lo đê điều. Trong giai đoạn này, tương ứng với trục đường phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường và kéo xuống tận phố Bà Triệu rồi sang phố Nguyễn Du hiện nay là con đê bảo vệ thành. Cuối đời Lê, phường Hà Khẩu (nay là Hàng Buồm) nơi triều đình quy định cho Hoa kiều cư trú và những hiệu buôn khách trú, để tránh úng ngập, họ đã tự nguyện tải đá về kè đê để ngăn nước lũ. Khi người Hà Lan mở thương điếm ở Thăng Long, thấy bị lụt lội, các thương nhân đề nghị triều đình đắp thêm con đê mới theo mép sông Nhĩ Hà đến cửa sông Tô Lịch (phường Hà Khẩu) tương ứng với các con phố ngày nay: Mã Mây, Nguyễn Hữu Huân, Ngô Quyền.
Triều Nguyễn dù đã chuyển kinh đô vào Huế và Thăng Long bị hạ cấp xuống Bắc Thành nhưng Gia Long hiểu rằng muốn tranh thủ lòng dân, không có gì khác hơn là phải an cư lạc nghiệp cho dân Bắc Hà, đặc biệt là Bắc Thành - nơi có rất nhiều sĩ phu không ưa nhà Nguyễn đang sinh sống. Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã hỏi han về lụt lội. Sau khi nghe quan lại Bắc Thành tâu: "Thế nước sông Nhĩ Hà lên tất mạnh. Đê tả hữu thuộc Tây Sơn, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, nhiều chỗ vỡ lở. Xin cho dân đắp ngay để chống lụt mùa thu. Thủy đạo các trấn nhiều nơi úng tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét". Gia Long đã truyền cho các quan ở các trấn phải "Soi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: Chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa chữa lại". Minh Mạng lên ngôi năm 1820, không chỉ duy trì luật lệ về đê điều từ triều Gia Long mà còn bổ sung thêm nhiều điều khoản và cứng rắn hơn trong quản lý. Minh Mạng còn dụ thêm rằng: "Đắp đê là chống nước lụt cho dân yên ở, quan hệ lợi hại không nhỏ". Theo mô tả của bác sĩ Hocquard trong cuốn "Một chiến dịch ở Bắc Kỳ" (xuất bản ở Paris 1892) thì từ năm 1883, đoạn đê vào khu Đồn Thủy (khu vực từ Bảo tàng Lịch sử Việt Nam kéo xuống Bệnh viện Hữu Nghị hiện nay) đã rất cao nhưng năm 1884, mưa bão lớn làm sụt lở đê ở khu vực này nên người Pháp phải đổ kè đá ở bên ngoài bờ sông Hồng chỗ Hàng Than dài 400m để hướng dòng chảy sang bờ bên kia. Trận lụt năm 1926, Hà Nội bị ngập nặng. Vì lúc đó đoạn đê dọc đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải khá thấp nên Thống sứ Bắc kỳ đã cho đắp cao lên, đồng thời củng cố cả hệ thống đê Hà Nội, có nơi đắp cao 14m. Họ cũng xây dựng công trình phân lũ đập Đáy I. Thực tế cho thấy việc đầu tư của người Pháp vào đê điều ít có hiệu quả vì từ năm 1905 đến 1945, Hà Nội vẫn xảy ra lũ lụt và đê vỡ.
Sau năm 1954, chiều dài đê bên tả và hữu sông Hồng của Hà Nội khoảng 75km, nếu tính cả đê sông Đuống là 120km. Cũng chính vì đê ngày càng cao và kiên cố hơn đã sinh ra các bãi bồi khiến dòng chảy sông Hồng đổi liên tục. Sau trận vỡ đê năm 1971, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp mới, ngoài việc tăng cường hệ thống đê, còn cho xây hồ chứa nước và phân lũ. Khi mực nước sông Hồng tại Hà Nội đến mức báo động 13,4m thì nước sông Hồng ở đầu nguồn được xả vào Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nam và Nam Định. Năm 1996, nhờ có vốn vay của Ngân hàng Châu Á nên hệ thống đê dọc hai bờ sông Hồng được nâng cấp tương đối hoàn chỉnh. Một số đoạn có đường hành lang hai bên thân đê, mặt đê được cứng hóa bằng nhựa hoặc bê tông. Hiện nay, theo thống kê thì Hà Nội hiện có 20 tuyến đê chính với tổng chiều dài 469,913km.
Công trình của tiền bạc và trí tuệ
Từ lâu, đê đã trở thành nơi hẹn hò đôi lứa, là chỗ trăn trâu và tập trận giả của con trẻ nhiều miền quê. Đê cũng đi vào thơ ca, trong bài "Lời thề cỏ may" của nhà thơ Phạm Công Trứ, có câu thật đẹp:
Trăng vàng đêm ấy, bờ đê
Em ngồi em gỡ lời thề cỏ may
Những con đê không chỉ thơ mà còn vào tiểu thuyết, âm nhạc và phim ảnh. Nhưng những con đê cao với cỏ mọc mấy ai biết nó hình thành từ sức lao động của hàng vạn con người từ bao đời nay. Và cả hệ thống đê ở miền Bắc thì đó là cả núi công sức và tiền của. Không đơn giản chỉ là vật chất mà là phải đắp ra sao, chỗ nào cao, chỗ nào thấp; nắn dòng để bảo vệ thế nào rồi đi kèm với đê còn là cả hệ thống pháp luật, tất cả đòi hỏi phải rất khoa học.
Sử sách ghi lại khi đắp đê bảo vệ thành Đại La, Cao Biền đã cần tới hàng nghìn người thực hiện ròng rã trong nhiều năm. Rồi các triều vua Lý, Trần đến Lê, đắp đê không chỉ có dân ở các địa phương nơi có sông chảy qua mà huy động cả dân nhiều nơi khác. Nhà nước chỉ nuôi ăn và họ không hề có công xá vì đó là trách nhiệm chung. Việc hộ đê mùa lũ lụt được các vua Trần rất quan tâm, triều đình quy định khi có lũ lụt, mọi người đều phải có trách nhiệm. Vua đích thân đi huy động và có năm còn huy động cả sĩ tử ở Quốc Tử Giám. Mới lên ngôi năm 1803, vua Gia Long đã đồng ý cho xây đắp 7 đoạn đê mới ở miền Bắc với số tiền là 80.400 quan.
(Còn tiếp)
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.