Cứ đến độ xuân về, du khách các nơi lại nườm nượp đổ về trẩy hội Phủ Giày (ngày mồng 8 tháng Giêng), một trong những phủ thờ bà Chúa Liễu Hạnh trong 'Tứ bất tử' ở Việt Nam. Mặc dù tháng ba mới là Hội chính nhưng mới qua tết, các con nhang đệ tử, các thiện nam tín nữ nô nức đổ về cầu lộc, cầu duyên. Đã hàng trăm năm, Phủ Giày nổi tiếng với sự linh thiêng của bà Chúa Liễu Hạnh...
Hội Phủ Giầy |
Cứ đến độ xuân về, du khách các nơi lại nườm nượp đổ về trẩy hội Phủ Giày (ngày mồng 8 tháng Giêng), một trong những phủ thờ bà Chúa Liễu Hạnh trong ''tứ bất tử'' ở Việt Nam. Mặc dù tháng ba mới là hội chính nhưng mới qua tết, các con nhang đệ tử, các thiện nam tín nữ nô nức đổ về cầu lộc, cầu duyên. Đã hàng trăm năm, Phủ Giày nổi tiếng với sự linh thiêng của bà Chúa Liễu Hạnh. Từ đêm mùng 7 tháng Giêng hàng vạn người từ các nơi sẽ đổ Phủ Giày và đi chợ Viềng trong xuân sắc đất trời.
Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong công chúa thì được gọi là Phủ. Thực ra ở phủ Giầy có một hệ thống kiến trúc liên quan tới Liễu Hạnh, đó là phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu.
Người ta truyền rằng Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian, thác sinh vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt tên là Giáng Tiên, tới năm 18 tuổi thì gả chồng. Lấy chồng mới được ba năm thì hết hạn đầy bị gọi về trời. Nhưng vì nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở về hạ giới. Lần này trở lại, nàng thích vân du khắp nơi, gặp danh sĩ Phùng Khắc Khoan và họa thơ với ông ở Lạng sơn và Hồ Tây, sau lại kết duyên với một thư sinh ở xứ Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng lại giáng sinh. Lần này nàng không ở một nơi mà cùng hai thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát là nơi phong cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường để trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đình nhà Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên đã dàn quân đánh nhau, đó là "Sùng Sơn đại chiến".
Do lập mẹo quân triều đình có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó đức Phật ra tay, giảng hòa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được triều đình phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu.
Ði Hội Phủ Giầy, ghé qua hội chợ Viềng. Ðó là hội chợ cũng ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản - nơi người xưa đã gọi là "địa linh, nhân kiệt". Sự độc đáo của chợ Viềng là mỗi năm họp chỉ có một phiên.
Chợ Viềng họp cả ngày vào mùng 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhưng người ở xa thường về từ sớm, rậm rịch họp chợ từ 11, 12 giờ đêm hôm trước, cho đến sáng và hết cả ngày hôm sau. Khách đến từ khắp nơi, trong Nam ngoài Bắc đông nhất vẫn là người nội tỉnh sau đến khách các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá đổ ra. Khác các tỉnh từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thái Bình đổ về đông nườm nượp.
Ngày trước, khi chưa có điện, người bán hàng thắp một ngọn đèn dầu tù mù. Trong bóng tối mờ mờ, ngọn đèn dầu đặc khói không thể giúp người mua biết được chính xác rằng món đồ cũ đó còn có thể dùng được hay đã hỏng hoàn toàn. Những món đồ cũ được bán chủ yếu là để cầu may chứ không để thu lợi như bây giờ. Ở đây người mua hoàn toàn tin tưởng vào người bán và cũng là những người hàng xóm hay người quen trong vùng của mình. Chính vì vậy, chợ Viềng còn làm cho con người càng thêm gắn bó với nhau. Ở chợ Viềng, người ta còn bán thịt các loại cây và cả thịt bê.
Chợ Viềng bây giờ đã thay đổi rất nhiều cả ý nghĩa lẫn các loại hàng hoá. Rất ít những người bán đồ cũ, đồ cổ thực sự, phần lớn là những mẹt hàng sành sứ, đồng thau giả cổ bày bán ở những chỗ càng tối càng tốt... Nhiều người chuẩn bị cho buổi chợ này đã phải ra tận các lò gốm Bát Tràng để đặt những mẻ lọ sứ, bát sứ giả cổ. Những chậu cây cảnh đặt san sát bên nhau trong bóng tối không hề có một khoảng không gian nào để “toả thế” của mình. Người mua phải dùng đèn pin nhỏ để soi... thế cây. Chính vậy mà nhiều người khi vác chậu cây ra khỏi chợ, đến nơi có ánh điện mới biết mình mua lầm... thế cây.
Có lẽ ý nghĩa lớn nhất của chợ Viềng bây giờ lại không phải là những gì đã tạo nên nó. Hàng hoá mỗi năm một đơn điệu và người mua cũng đã “miễn dịch” với chúng. Những thứ bầy bán ở chợ Viềng người ta có thể mua được ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Nhưng điều gì vẫn khiến mỗi năm lại có một buổi chợ Viềng đêm. Nhiều năm nay, người dân quanh vùng đó vẫn đổ đến chợ Viềng mỗi năm một đêm. Họ đi cả gia đình, cùng nhau ngắm nghía hay trả giá mua một món đồ sứ... mới toanh nào đó. Quanh năm, họ sống trong một cuộc sống yên ả, nề nếp, đúng giờ giấc. Đến đêm chợ Viềng, nhịp sống của họ thay đổi hoàn toàn. Họ thức suốt đêm, đi ra khỏi nhà và hoà mình vào dòng người nửa quen nửa lạ. Tâm hồn họ háo hức, cơ thể họ thay đổi nhịp sinh học. Đối với những người dân đơn sơ như vậy, chợ Viềng của họ vẫn còn mãi. Và chính họ mới là những người khách đích thực của chợ Viềng hàng năm.
Tiếng là "hội chợ" nhưng chợ Viềng không bán mua những sản phẩm ngoại lai cao cấp, hào nhoáng đắt tiền như ở các hội chợ tỉnh, thành phố lớn. Sản phẩm được đem ra mua bán ở đây chủ yếu là các cây trồng, vật nuôi: từ cây trồng để lấy gỗ, cây hoa cây cảnh, các loại cây ăn quả, thậm chí cả cây cà, cây chanh, cây ớt. Và sau nữa là đến các vật dụng sản xuất nhỏ của nhà nông. Người ta có thể tìm mua ở đây từ cái cày cái cuốc, đến các vận dụng nhỏ như đôi quang thúng, cái đòn gánh cùng trăm ngàn thứ vật dụng linh tinh khác.
Ngoài ra còn có thứ thực phẩm được người bán kẻ mua rất tưng bừng náo nhiệt. Ðó là thịt bò non. Nói đúng ra là thịt bê được thui vàng ươm nguyên cả con, bán rất nhiều dọc các ngả đường đi vào chợ. Có thể nói không ngoa rằng "Trên là trời, dưới là thịt bò bê". khách mua ai thích phần nào có thể tuỳ chọn, mà giá lại rất phải chăng, hợp với túi tiền của "người nhà quê". ở chợ phiên này có tục người bán không hề nói thách và người mua cũng không hề mặc cả - Một nét đẹp đáng yêu chỉ phiên chợ này mới có. Hình như "sự bán, sự mua" ở đây mang nặng một ý thức tâm linh nào đó - rằng người ta chỉ cần bán hoặc mua được một vật gì đó dù rất nhỏ thì người bán kẻ mua đều gặp nhiều may mắn tốt lành, và cả đôi bên đều cùng vui vẻ hỉ hả ra về đi lễ chùa cầu may cầu lộc. Chính vì vậy hội chợ Viềng ngày xưa còn có tên gọi là chợ Cầu May.
Khách thập phương về hội chợ phần lớn là do nghe danh tiếng của chợ Viềng mà về, nhưng phần đông vẫn là những người có gốc gác hoặc quê quán ở tỉnh Nam đi làm ăn xa nay nhớ đất Tổ, đất quê tìm về. Nên dù có xa mấy, tận bên kia Ðại Dương, tần Sài Gòn lục tỉnh... cũng nhớ ngày về để dự hội.
Thúy Loan