Chu Văn An (1292-1370) quê thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, học vấn uyên thâm, tính tình kiên nghị, không cầu danh lợi. Ông mở trường dạy học ở quê nhà trên cánh đồng phía đông nay thuộc địa phận thôn Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp. Học trò mến mộ tài đức, đến học rất đông, những người thành đạt giữ chức vụ cao trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy cũ vẫn giữ lễ, được thầy hỏi chuyện thì rất vui mừng.
Quang cảnh chùa Côn Sơn
Đến đời Trần Dụ Tông, do cả nghe bọn nịnh thần, vua ăn chơi vô độ, chính sự rối ren, ông bèn dâng sớ chém 7 đại thần có thế lực mà vua yêu. Không được vua chấp nhận, ông bèn treo mũ từ quan, lui về quê dạy học. Ít lâu sau, vì mến cảnh đẹp ở Chí Linh (Hải Dương) ông về ở ẩn và mở trường dạy học nhưng mỗi khi có triều hội, vua vẫn vời ông về Kinh đô. Nhiều lần, vua muốn giao chức vụ, ông đều từ chối. Mẹ vua rất quý, thường cho người về Chí Linh ban mũ áo và vật phẩm, ông bái nhận nhưng rồi lại đem phân phát cho người xung quanh.
Ngày 25-9 năm Canh Tuất (1370) ông mất, vua cấp sắc phong thần, ban tiền dựng miếu thờ ở 7 trang trong đó có trang Huỳnh Cung.
Về việc dựng đền Huỳnh Cung, có thuyết nói, ngay khi Chu Văn An mất, một số học trò đang giữ chức vụ trọng yếu trong triều, nhớ công ơn dạy dỗ của thầy đã về Huỳnh Cung dựng đền ngay trên nền trường cũ.
Ban đầu, đền chỉ là ngôi nhà ba gian, sang đời Bảo Thái (1720-1729) mới làm bằng gỗ lim và lợp ngói. Đến năm Giáp Ngọ 1774 đời Cảnh Hưng làm nhà bái đường 5 gian và 10 năm sau (Ất Tỵ 1785) xây tường chung quanh. Việc xây dựng này do Tham tụng Bùi Huy Bích người làng Thịnh Liệt và Thiêm sai Lưu Côn người làng Nguyệt áng chủ trì.
Giữa thế kỷ XIX trước cảnh “kèo cột hỏng nát, súc vật thả rông bên cạnh, chẳng ai trông nom”, ông Nguyễn Tử Tư đi quyên tiền sửa từ chỉ và đặt ruộng thờ.
Mùa xuân năm Canh Thân 1860, đời Tự Đức, các ông Trịnh Lý Hanh ở Định Công, Hoàng Đình Chuyên ở Linh Đường quyên tiền sửa đền chính 3 gian, thay chái nóc bằng cửa trong có chạm trổ, nhà bái đường 5 gian, tả hữu 3 gian đều làm bằng gỗ tốt. Xung quanh xây tường che, ngoài cùng có tường đất bao bọc.
Bia trùng tu đền do án sát Nguyễn Văn Siêu soạn đã ghi 46 người là Tổng đốc, bố chính, tri phủ, danh sĩ ở khắp nơi trong nước đã góp 73 lạng bạc, 3067 quan tiền để tu sửa đền.
Qua văn bia, có thể hình dung quy mô đền Huỳnh Cung khá lớn, ruộng tự điền có 15 mẫu.
Đền này trước kia do triều đình hàng năm về tế lễ, sang triều Nguyễn việc lễ do Tổng trấn Bắc Thành, sau năm 1831 do tỉnh đường Hà Nội, thời Pháp thuộc do huyện Thanh Trì chủ trì.
Tiếc thay, đền Huỳnh Cung đã bị phá hủy trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trên khu vực đền, chỉ còn một cột cổng cao 4m, nền móng đền, con rùa đá đế bia và mấy mảnh vỡ của tấm bia, văn do TS Nguyễn Công Thể soạn năm 1717. Cách đây hơn 40 năm, trên bãi đất rộng còn những mô đất mấp mô, tương truyền mỗi mô là chỗ ngồi của học trò nghe thầy giảng.
Năm 1966, theo yêu cầu của kháng chiến, diện tích 6 ha của đền đã trở thành trạm xăng dầu của Sư đoàn 361.
Sau ngày đất nước thống nhất, người Huỳnh Cung có ý nguyện dựng lại ngôi đền có giá trị đặc biệt về văn hóa và lịch sử giáo dục toàn quốc.
Gần 20 năm qua, dân làng và chính quyền xã Tam Hiệp đã làm nhiều việc để ước nguyện ấy trở thành hiện thực.
Ngày 17-4-1990, bản đồ địa chính khu đền rộng 1,5 ha tỉ lệ 1/500 do huyện Thanh Trì lập, xác nhận đất do quân đội quản lý chỉ sử dụng 15%.
Ngày 21-8-1992, thủ trưởng đơn vị có công văn gửi chính quyền địa phương hứa giữ gìn di vật còn sót lại và khi nào di tích được xếp hạng, đơn vị sẽ thực hiện ngay các quyết định của Nhà nước, trả lại đất đền cho dân.
Ngày 29-1-1993, Bộ VH-TT đã có quyết định số 68 xếp hạng di tích đền thờ Chu Văn An ở Huỳnh Cung.
Nhằm giữ dấu xưa, cuối năm 1994, quỹ Thụy Điển - Việt Nam phát triển văn hóa đã giúp kinh phí để phụ lão làng xây lại một phần nền đền làm nơi đặt bát hương và đặt bia đá phục chế. Mặt trước bia khắc chữ Hán (văn bia của Nguyễn Công Thể) theo bản dập lưu tại Viện Nghiên cứu Hán-Nôm; mặt sau khắc bản dịch văn bia của nhà thơ Trần Lê Văn.
Nhưng lẽ nào nơi thờ phụng nhà giáo được người Việt tôn vinh là “Vạn thế sư biểu” lại đơn sơ như thế. Sau hơn một năm dày công chuẩn bị, tháng 12-1995 Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương lập dự án “Tu bổ, bảo tồn, tôn tạo và quy hoạch di tích đền Chu Văn An” đã hoàn tất. Cơ quan hữu trách đã chọn phương án 2 của dự án, với kinh phí hơn 4 tỉ đồng sẽ phục hồi tiền tế, nhà bia, nhà khách, cổng, khuôn viên, tường rào... Mọi việc tưởng xong đến nơi, nào ngờ hơn một năm sau mọi việc vẫn dẫm chân tại chỗ.
Ngày 5-12-1996, tại UBND xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì lại bàn duyệt dự án một lần nữa và kiến nghị thành phố cho xây dựng và phục hồi di tích danh nhân Chu Văn An tại thôn Huỳnh Cung. UBND huyện làm chủ đầu tư và dự trù kinh phí cho công trình vào đầu năm 1997.
Thấm thoát 7 năm đã trôi qua, gần đây, tôi về lại vùng đất thiêng vẫn thấy cảnh trí nơi đây thật tiêu điều. Một ao nhỏ thả cá, con bò thả rông đang lang thang gặm cỏ. Mấy mái nhà cấp 4 sập sệ, bên đường đất cỏ dại mọc đầy.
Tò mò hỏi han, tôi biết, trước đây thi thoảng có nhà giáo, học sinh sau khi thăm Văn Miếu có tìm đến đây thắp nén hương tưởng niệm người Thầy của muôn đời. Song vì là “khu quân sự” việc dân thường qua cổng vào đất đền cũ quá phiền phức nên người đến đây thưa vắng dần.
Được biết, cách nơi này độ 300m, tại phật điện chùa Huỳnh Cung có ban thờ Đức Thánh Chu với ngai, bài vị, mũ, bia và 11 sắc phong của các triều Lê, Nguyễn phong thần cho Chu Văn An. Khi bước vào cuộc binh lửa đầu năm 1947, trước nguy cơ ngôi đền bị tàn phá, các bô lão làng Huỳnh Cung đã chuyển các di vật và lập ban thờ Chu Văn An tại chùa.
Vậy là, đức Chu Văn An, vị Tổ đạo nho của nước Việt ở nhờ ngôi chùa Phật đã 60 năm và nơi chính thờ ngài đã được Nhà nước xếp hạng đã 11 năm mà nay vẫn rơi vào cảnh hoang tàn. Phải chăng nhân dân xã Tam Hiệp và huyện Thanh Trì còn nghèo không lo phục dựng được nơi thờ ngài hay do sự hờ hững với một di tích có tầm cỡ vào loại nhất của Hà Nội.
Vậy đến bao giờ đền Huỳnh Cung thờ Chu Văn An mới được tôn tạo ? Câu hỏi ấy, trước hết dành cho UBND huyện Thanh Trì.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.