Giáo dục Việt Nam thời gian qua đạt nhiều thành tựu quan trọng như mở rộng quy mô mạng lưới trường lớp, hoàn thành phổ cập giáo dục, duy trì chất lượng giáo dục mũi nhọn, nâng cao trình độ đội ngũ nhà giáo, từng bước khẳng định vị thế giáo dục đại học trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục vẫn chưa tạo được đột phá, nhất là trong các ngành khoa học - công nghệ, các lĩnh vực then chốt mới nổi và chưa đáp ứng yêu cầu về nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn phát triển mới. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh đầu tư để tạo những bước đột phá về giáo dục trong giai đoạn tới.
Nghị quyết số 71-NQ/TƯ ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh yêu cầu thống nhất triển khai một Chương trình mục tiêu quốc gia mới cho giai đoạn 2026-2035. Vừa qua, dưới sự chủ trì của Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035, chuẩn bị để trình Quốc hội xem xét. Trước đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 369/NQ-CP ngày 14-11-2025 thông qua hồ sơ Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình này. Đây là bước tiến quan trọng trong thể chế hóa chủ trương của Đảng, đưa giáo dục - đào tạo thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu” bằng hành động và nguồn lực cụ thể.
Để hiện thực hóa tinh thần đó, cần xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia mang tính tổng thể, đủ tầm, đủ lực, đủ cơ chế để tạo chuyển biến mạnh mẽ và đồng bộ. Chương trình không chỉ nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn cố hữu như thiếu nguồn lực, cơ sở vật chất xuống cấp, bất cập trong đào tạo nhân lực chất lượng cao…, mà còn tạo ra cơ chế thống nhất trên phạm vi quốc gia, tránh tình trạng đầu tư manh mún, chắp vá giữa các vùng miền, giữa các cấp học. Nói cách khác, đây là chương trình tạo nền móng để Việt Nam bước vào giai đoạn giáo dục hiện đại, hội nhập, sánh ngang khu vực và tiến tới chuẩn thế giới.
Do đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phải được thiết kế theo hướng tập trung, trọng tâm, tránh dàn trải, xác định rõ các nhóm đối tượng ưu tiên, nhất là vùng khó khăn, bậc mầm non - phổ thông và các trường đại học trọng điểm. Đi đôi với đó là việc tính toán kỹ lưỡng khả năng cân đối nguồn vốn, phân bổ có trọng điểm, đồng thời mở rộng các cơ chế huy động vốn ngoài ngân sách.
Một yêu cầu quan trọng là giữ mức chi ngân sách cho giáo dục tối thiểu 20% tổng chi, trong đó bảo đảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển; sớm ban hành cơ chế tài chính khuyến khích hợp tác công - tư, chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng cho cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục không vì lợi nhuận. Đây là giải pháp để tạo sự bền vững và công bằng trong đầu tư.
Để giáo dục Việt Nam phát triển và hội nhập sâu rộng, cần có cơ chế thông thoáng hơn trong việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức giáo dục nước ngoài đến Việt Nam; khuyến khích thành lập phân hiệu trường quốc tế và mở cơ sở giáo dục Việt Nam ra nước ngoài.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu dựa vào tri thức, nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố quyết định. Vì vậy, phát triển giáo dục và đào tạo chính là động lực then chốt để phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Chỉ khi hệ thống giáo dục được hiện đại hóa, được đầu tư tương xứng và có cơ chế vượt trội, chúng ta mới bảo đảm cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, thu hẹp chênh lệch vùng miền, đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho phát triển nhanh và bền vững.
Tất cả những phân tích trên cho thấy, Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo không chỉ cần thiết mà còn cấp bách. Đây sẽ là nền tảng để giáo dục - đào tạo thực sự giữ vai trò “quốc sách hàng đầu”, dẫn dắt sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.