Theo dõi Báo Hànộimới trên

Đất Khúc Thủy và đức Thành hoàng Trần Thông

VANCHIEN| 21/06/2009 09:00

(HNM) - Nằm ven bờ trái sông Nhuệ, được hưởng nguồn nước mát từ con sông này đem lại, từ bao đời nay, làng Khúc Thủy, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội là một vùng cảnh quan tươi đẹp.

Rặng muỗm trước cửa đình Khúc Thủy. Ảnh: Vũ Tụng

(HNM) - Nằm ven bờ trái sông Nhuệ, được hưởng nguồn nước mát từ con sông này đem lại, từ bao đời nay, làng Khúc Thủy, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội là một vùng cảnh quan tươi đẹp.

Tòa đại bái đình Khúc Thủy 5 gian, cột gỗ lim, đá tảng kê chân cột đều được chạm trổ tỉ mỉ. Hai gian đầu hồi tòa đại bái nối với ba gian mỗi bên tạo thành hai giải vũ. Điều rất lạ là cổng đình Khúc Thủy làm kiểu tam quan chùa, phía trên có gác chuông. Đình Khúc Thủy lưu giữ được nhiều hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, chữ do các vị tú tài, cử nhân và của tiến sĩ Bùi Đức Cơ, đỗ khoa Quý Mão viết: Hằng năm, vào rằm tháng Hai âm lịch, dân làng Khúc Thủy mở hội lớn rước tưởng niệm công đức vị Thành hoàng. Đoàn rước đi từ đình xuống đền và rước đức Thành hoàng về đình tế lễ. Đình Khúc Thủy còn giữ được bản thần tích chữ Hán và 34 sắc phong thần của triều Lê và Nguyễn. Bản thần tích cho biết, vị Thành hoàng làng là Trần Thông, con trai của Trần Khát Chân, một tướng tài đời Trần.

Theo bản thần tích có tên gọi "Cổ Mai bi ký" hiện lưu tại đình Tương Mai thì tổ tiên Trần Khát Chân thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, đến đời thứ năm thì chuyển về xã Nhuế Dương, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Trần Khát Chân sinh ngày mồng 3 tháng Chạp năm Canh Tuất (1370), đặt tên chữ là Kính Đức.

Lớn lên, Trần Khát Chân có sức khỏe và dung mạo khác người, liền được sung vào quân ngũ. Tháng 11 năm 1389, trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Chiêm, Đại tướng Hồ Quý Ly bỏ chạy về kinh thành. Thăng Long một lần nữa có nguy cơ bị quân Chiêm tàn phá. Năm ấy, Trần Khát Chân 20 tuổi, giữ chức Đô tướng (chức thấp nhất trong mỗi vệ), được Thượng hoàng cử cầm quân đi chặn giặc. Tháng 3 năm 1390, ông lập được công lớn trên sông Hải Triều, dùng pháo lớn bắn trúng thuyền của Chế Bồng Nga, vua Chiêm chết tại trận. Ngày khải hoàn, ông được vua phong là Long tiệp phụng thần nội vệ Thượng tướng quân, tước Vũ Tiết Quan nội Hầu.

Năm sau (1391), vua Trần lại lấy hương Cổ Mai (một vùng đất từ đường Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng đến 2 phường Trần Phú, Yên Sở, quận Hoàng Mai ngày nay) để phong thưởng cho Trần Khát Chân. Cũng tại hương Cổ Mai, năm 1398, ông lấy bà Lê Thị Ngọc Dao. Ở đình Tương Mai hiện có pho tượng Trần Khát Chân tạc bằng đá xanh, to gần gấp hai người thật. Tượng đặt trên bệ đá, xung quanh bệ đá có tạc hổ phù, sóng nước, cánh sen, đường nét tinh xảo. Ngoài ra, đình còn giữ được 11 sắc phong của các triều cho Trần Khát Chân và Phạm Ngưu Tất. Từ những điều ghi trong thần tích, chúng tôi còn được biết thêm rằng, lúc thái ấp rơi vào tay Hồ Quý Ly, một gia thần là Vũ Toản, khi biết tin dữ đã đem con của Trần Khát Chân là Trần Thông đi trốn ở làng Khúc Thủy. Lớn lên, Trần Thông có ra tu luyện ở núi Yên Tử và sau đó tham gia đánh giặc. Khi mất được phong "Ninh Thông Hòa thượng Đại vương".

Ngày 9-5-2009, chúng tôi về Khúc Thủy, hy vọng tìm kiếm thêm được tư liệu về Trần Khát Chân và con trai ông. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Trần Thông đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi (1407-1409). Trần Thông sinh năm Giáp Tý, 5 tuổi nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi được xung vào Nội các vua Trần Thiếu đế, được phong làm Nội các Trường ấn sử kiêm Thị nội Vệ quân. Nhà Minh đánh bại nhà Hồ. Nghe tin Trần Ngỗi, là con thứ của Trần Nghệ Tông khởi nghĩa, xưng là Giản Định đế, ngày 1-11-1407 truyền hịch chống giặc đi khắp nơi, Trần Thông liền hưởng ứng và chiêu mộ được hơn 500 người ở quanh làng Khúc Thủy xin gia nhập nghĩa quân. Trần Thông được phong là Đốc lĩnh Binh nhung kiêm Tả hữu Vệ quân và xuất quân vào Thanh Hóa đánh một trận ở vùng Giao Thủy diệt hơn 500 địch. Nhưng sau chiến thắng Bô Cô, do nội bộ lãnh đạo sinh mâu thuẫn dẫn đến chia rẽ lực lượng nên cuộc khởi nghĩa bị đàn áp và tan rã. Trần Thông lui về Khúc Thủy, lấy phong hòa làm cốt yếu và xây dựng đời sống dân thôn có phong tục đẹp.

Gian chính của đình Khúc Thủy có bức hoành "Thánh cung vạn tuế"; gian bên trái có bức "Mỹ tục khả phong" (làng có phong tục đẹp), chữ do vua Tự Đức tặng làng năm 1856; đăng đối với bức này, ở gian bên phải có treo bức "Khúc Thủy xã nghĩa dân" (làng Khúc Thủy làm nhiều việc nghĩa), chữ do vua Kiến Phúc tặng làng khi lên ngôi năm 1883. Ghi nhớ công lao ấy, từ xa xưa, làng Tương Mai (nay thuộc quận Hoàng Mai) và làng Khúc Thủy (huyện Thanh Oai) đều thờ hai cha con làm Thành hoàng.

Trần Văn Mỹ

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Đất Khúc Thủy và đức Thành hoàng Trần Thông

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.