(HNM) - Nằm ở phía Tây kinh thành, huyện Từ Liêm xưa là nơi có nhiều nhà khoa bảng. Theo “Từ Liêm đăng khoa lục”, vùng Mỗ có 10 vị, nổi bật hơn cả là dòng họ Nguyễn Quý thời Lê Trung Hưng cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII.
Di tích lịch sử nhà thờ họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ. |
Cụ Nguyễn Quý Đức sinh năm 1648, 16 tuổi đã đỗ Hương Cống (cử nhân), 23 tuổi vào Ban thị nội văn chức, 29 tuổi đỗ Đình nguyên Thám hoa, được bổ Hàn lâm Đãi chế. 42 năm làm quan, cụ được giao nhiều trọng trách và đã hoàn thành xuất sắc, 10 năm liền làm Tể tướng, cụ đã góp nhiều cho việc trị quốc an dân.
Về chính trị, cụ lấy việc an dân là chính. Tuyệt đại đa số dân làm nghề nông, nên vấn đề quan trọng bậc nhất là ruộng đất. Cụ đã đề xuất sửa đổi chế độ quân điền có từ thời Vua Lê Thánh Tông. Đến cuối thế kỷ XVII, cụ đã thực hiện được nhiều điều mơ ước. Đi trấn ải Cao Bằng, rồi Quảng Yên - Hải Dương loạn lạc, chỉ một thời gian ngắn cụ làm những nơi này ổn định. Cụ đề xuất lựa chọn người tài bổ nhiệm làm quan, hằng năm đều kiểm tra nghiêm túc, ai tốt được đề bạt, ai phạm sai lầm phải giáng hoặc cách chức.
Về ngoại giao, cụ từng giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc. Với kiến thức uyên thâm, tài năng ứng phó, cụ kiên trì đòi đất ở các tỉnh bị lấn chiếm, thực hiện lời Lê Thánh Tông “Người nào đem một thước núi, một tấc sông của tổ tiên làm mồi cho giặc, thì phải tội tru di”. Tình hình biên giới dần ổn định, phần đất bị lấn chiếm dần được hoàn trả.
Nguyễn Quý Đức là một nhà văn hóa lớn, hết sức coi trọng việc đào tạo nhân tài. Được giao trông coi Quốc Tử Giám, cụ trực tiếp chỉ đạo việc lựa chọn người dạy và học, đích thân xuống nhiều trấn xem xét việc tuyển giám sinh. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên ở dạng chép tay, cụ cùng các danh sỹ Phạm Công Trứ, Lê Hy viết tiếp thời gian lịch sử 218 năm. Lần đầu tiên nước ta có được Toàn thư khắc in và lưu hành toàn quốc. Lời tựa bộ Quốc sử Đại Việt sử ký tục biên viết: “Trong sử phải nêu được việc hay việc dở mà công khai khen chê rõ ràng. Được lời khen của sử hơn cả vinh dự được vua ban áo đẹp. Bị lời chê của sử nặng hơn cả búa rìu. Sự thật là cái cân, cái gương để lại muôn đời sau”. Nhà Lý xây Văn Miếu năm 1070, Trường Quốc học năm 1076, sau một thời gian dài có lúc gián đoạn vì chiến tranh, trở nên gần như hoang tàn.
Năm 1716, cụ đã xin triều đình cho trùng tu, gần như xây mới hoàn toàn, khang trang bề thế hơn. Công việc phải 2 năm mới xong. Số tiền cấp ít ỏi, cụ quyên góp và bỏ tiền riêng cho đủ kinh phí. Chỉ đạo trực tiếp việc dựng 21 bia Tiến sỹ (trong số 82 tấm), cụ chỉnh sửa nhuận sắc tất cả, chọn đá, viết bài văn đem khắc. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử học Phan Huy Chú ghi nhận nhân cách lớn của cụ: “Ông là người khoan hậu, trầm tĩnh. Ngày thường tiếp ai thì dễ dàng vui vẻ. Nhưng khi bàn luận chính sự trước vua chúa việc gì chưa được thỏa đáng, ông giữ ý kiến của mình, bàn đi bàn lại ba bốn lần không ai ngăn được. Ông làm văn không cầu trau chuốt mà ý tứ vẫn sâu sắc. Triều đình có chế tài gì quan trọng phần lớn do tay ông soạn thảo. Ông làm Tể tướng 10 năm liền, về chính sự chuộng khoan hòa và trung hậu. Đám hậu tiến phần nhiều do ông cất nhắc. Việc sửa sang nhà Thái học và dựng bia Tiến sỹ đều do đích thân ông trông nom đến khi xong. Bàn đến ông ai cũng khen ngợi. Triều đình tặng Thôi tể truy phong Đại vương”.
Nguyễn Quý Đức là tấm gương liêm khiết, công bằng, thẳng thắn, trung thực, là vị quan mẫn cán, khiêm nhường, trọng tài đức, biết chăm lo cuộc sống cho dân, thường ví mình chưa xứng đáng “Làm men để chế rượu, muối mỡ để pha canh”. Cụ 3 lần xin nghỉ hưu vì “Thẹn mình không làm được việc gì có chút hiệu quả mong manh để pha phí tấm lòng bề trên trách vọng. Nay tuổi đã 70, nghĩ phận mình, xét sức mình nên đáng về hưu rồi, tự xét tài đức còn kém xa các bậc tiên hiền, e cản trở đến sự tiến tới của các người hiền, không khỏi tiếng chê là luyến tiếc quyền vị”. Cáo lão, cụ đã hòa mình vào cuộc sống dân dã, tiến đất làm chợ Mỗ, du ngoạn và giao lưu thơ phú. Trải hai đời vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông; ba đời chúa Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương, cụ được phong Quốc lão Đại vương, dân truyền tụng “Tể tướng Quý Đức, thiên hạ hưu túc”, “Thái bình chân Tể tướng”.
Trưởng tộc Nguyễn Quý Hồng - người trông coi nhà thờ họ. Ảnh: Dương Thủy |
Quận Thanh Xuân có phố Nguyễn Quý Đức. Trên đường 70 có một tấm biển ghi “Di tích lịch sử nhà thờ họ Nguyễn Quý”. Hội lịch sử Việt Nam đã đúc một pho tượng đồng cụ Nguyễn Quý Đức rước về đặt tại nhà thờ họ Nguyễn Quý ở làng Đại Mỗ.
Người con trai cả của Nguyễn Quý Đức là Quốc sư Đại vương Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân. 21 tuổi cụ đỗ Hương cống (cử nhân), năm 25 tuổi đỗ khoa sỹ vọng được tuyển vào làm Thị nội văn chức, 30 tuổi làm nội giảng ở Quốc Tử Giám. Năm 1715 cụ đỗ đệ nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng giáp), vào Hàn lâm viện lĩnh chức Bồi tụng, được giao viết 4 văn bia ở Quốc Tử Giám trong tổng số 21 bia mới được xây dựng năm đó. Bút pháp của cụ vào hàng đầu, qua các kỳ khảo sát quan lại trong triều đình đều đạt loại nhất, nên chúa Trịnh Cương giao nhiệm vụ Quốc sư dạy con trai là Trịnh Giang. Là người chính trực, thanh liêm, cương nghị, thiện ác phân minh, cụ lấy lời thẳng giúp vua, dùng học thuật kinh thư giúp chúa, văn không tô vẽ bay bướm mà giản dị tự nhiên, để lại 2 tác phẩm Thiên tự văn và Tứ thư đại chú.
Đang ở tuổi 48, cụ về cư tang cha rồi bị bệnh, mất ở tuổi 50, còn ấp ủ hoài bão lớn lao cho nước, cho dân. Triều đình ra sắc chỉ định rõ “Người giữ trọng trách Quốc sư, vua chúa đang được trông cậy, giúp rập rất nhiều thì nay không còn nữa, thật xiết bao đau xót”, truy tặng Thượng đẳng phúc thần, phong Đại vương. Các làng trong Tổng Mỗ thờ cụ là Thành hoàng.
Quốc sư công vị Đại vương Nguyễn Quý Kính là con trưởng của Nguyễn Quý Ân, cháu đích tôn của Nguyễn Quý Đức. Năm 22 tuổi cụ đỗ Hương cống, được tuyển vào thị nội văn chức, rồi thăng Lễ bộ lang trung thời Vua Lê Dụ Tông, đến 40 tuổi làm Thái học tự khanh, dạy em chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh, rồi giữ chức Bồi tụng.
Chúa Trịnh Giang chơi bời quá độ, sinh bệnh ốm đau cần nơi vắng vẻ để điều dưỡng. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ làm nhiều điều ngang trái, hãm hại đại thần, đánh thuế nặng nề, hình phạt dữ dội, khiến dân loạn lạc ly tán, nhiều người đã tập hợp lại chống nhà Chúa. Trịnh Doanh không dám quyết đoán vì danh chưa chính, ngôn chưa thuận. Cụ Nguyễn Quý Kính đã thực hiện nguyện vọng của bà Vũ thứ phi khuyên Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang trừ hết bọn gian thần cho yên dân, yên nước. Cụ lại vận động đại thần chân chính phò Trịnh Doanh lên ngôi, loại trừ lũ hoạn quan Hoàng Công Phụ. Việc thành công tốt đẹp. Chỉ sau 10 ngày cụ đã chỉnh đốn xong việc triều chính, được phong chức Tham tụng (Tể tướng).
Năm 65 tuổi, noi gương ông nội, cụ xin về hưu, sau nhiều lần mới được chấp nhận. Nhưng chỉ một năm sau, vua, chúa lại mời về triều xếp vào bậc Ngũ lão. Tác phẩm chính gồm có thích nghĩa bộ Tứ thư ngũ kinh ra quốc âm và Trung hiếu kinh chú giải. Về quê cụ sống giản dị, hòa mình với dân làng. Khi cụ mất (74 tuổi), vua Lê, chúa Trịnh đến khóc thảm thiết trước linh cữu, phong Đại vương, Thượng đẳng Phúc thần, sắc cho các làng trong Tổng Mỗ thờ làm Thành hoàng. Cũng như ông và cha, cụ để mộ bình thường trước cửa đình thôn Giao Quang.
Dòng họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ, như thế có một nhà nức tiếng với hai ông cháu là Tể tướng, ba đời phong Đại vương. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã khái quát cô đọng trong bức trướng mừng Tướng công Nguyễn Quý Kính: “Ba đời làm giảng quan, hai đời làm phụ tướng như tướng công (Nguyễn Quý Kính) kể từ Tiên công Quốc lão đến tướng công nền giáo dục về Thi - Thư - Lễ - Nhạc - Hiếu - Đễ - Trung - Tín một mạch truyền xa”. Thật đáng tự hào.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.