(HNMĐT) - Đất Cổ Nhuế Viên vốn là đất của làng Cổ Nhuế (tên Nôm là làng Noi). Từ thời Lý Thái Tông (1028 - 1054), làng Cổ Nhuế được cấp 1600 mẫu ruộng để thờ Đông Chinh Vương (em trai Lý Thái Tông). Vì ruộng thì nhiều, dân lại ít, không làm xuể, nên phần lớn ruộng bị hoang hóa.
Mãi đến năm ất Sửu niên hiệu Thiệu Long (1265), Vua Trần Thánh Tông xuống chiếu cho các vương hầu, cung tần, công chúa và phò mã chiêu tập dân nghèo và dân phiêu tán đi khai hoang, lập điền trang thái ấp. Người con gái thứ tư của Vua là Túc Trinh công chúa đã về làng Noi chiêu tập dân các nơi cùng các nô tỳ trong cung về khẩn hoang, lập ra xóm Vườn. Về sau, dân xóm dần đông đúc, phát triển thành làng, gọi là Cổ Nhuế Viên, là một thôn của xã Cổ Nhuế thuộc tổng Cổ Nhuế. Đến năm 1926, làng mới tách ra thành xã độc lập với dân số là 1039 người. Số ruộng do Bà Túc Trinh tổ chức khai khẩn cho Cổ Nhuế Viên đến hơn 400 mẫu, dùng làm ruộng công chia cho các suất đinh cày cấy. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, mỗi suất đinh vẫn còn được chia hơn 2 sào ruộng.
Công chúa Túc Trinh sau đó không lấy chồng, mà làm nhà ở tại khu Vườn Dinh, sống với dân làng Cổ Nhuế Viên. Từ đây, Bà tiếp tục chiêu dân phiêu tán, lập ra Trại Noi, sau phát triển thành làng, lấy tên chữ là Cổ Nội, tức làng Yên Nội (nay thuộc xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm). Bà còn bỏ tiền cho dân hai làng dựng ngôi chùa Viên (tên chữ là Anh Linh tự). Nhớ công ơn của Bà, dân hai làng tôn Bà là Bà Chúa. Sau khi Bà mất, dân làng Cổ Nhuế Viên táng Bà tại xứ đồng Đống, hiện còn mộ xây gạch cuốn, đắp thành gò đống rất to. Dân làng cùng với làng Yên Nội lập đền thờ Bà nay vẫn còn nhưng mới đây, tượng của Bà được rước vào chùa Viên. Hiện tại, trong chùa còn lưu ba đạo sắc phong cho Bà vào năm đầu niên hiệu Thành Thái (1889), Duy Tân thứ ba (1909) và Khải Định thứ chín (1924). Trong chùa còn quả chuông đúc năm Tự Đức thứ 23 (1870). Hàng năm, đến ngày giỗ Bà (mồng hai tháng Tám), dân làng cúng bà tại chùa bằng cơm gạo xay với muối vừng - những đồ ăn màthường dùng khi sống, để tưởng nhớ đến cuộc sống bình dị của Bà tại nơi thôn dã.
Làng Cổ Nhuế Viên có ngôi đình nhỏ chưa rõ được xây từ bao giờ. Nhiều bậc cao niên trong làng cho biết, đình này được xây sau khi làng trở thành một xã (năm 1926). Còn đình chính là đình chung với làng Cổ Nhuế Hoàng, cùng thờ Đông Chinh Vương và phụ thờ Tả Minh Hiên công chúa là những người con của Lý Thái Tổ.
Cũng như ở các làng Cổ Nhuế khác, tục lệ của làng Cổ Nhuế Viên xưa kia rất nặng nề. Tế lễ phải có giết trâu hoặc lợn (trâu hoặc lợn đi mua, không phải tự nuôi cầu kỳ như ở làng Chèm). Việc hiếu cũng rất phiền phức, chia làm ba hạng : Thượng - Trung - Hạ. Cả ba hạng tang chủ phải biếu các gia đình trong làng bánh dày, bánh chưng và gói nem.. Hạng Thượng thì khi khi đưa đám phảirước đi rước về và tế trạm. Trung lệ giảm bỏ tế trạm; hạ lệ thì thì bỏ cả tế trạm và rước về. Với việc hỷ, con gái khi đi lấy chồng phải nộp cho làng 100 viên gạch Bát Tràng để xây dựng các công trình chung của làng.
TS. Bùi Xuân Đính
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.