Theo dõi Báo Hànộimới trên

Cổ Nhuế, đất lành

ANHTHU| 04/07/2005 07:35

Người dân đất Thăng Long - Hà Nội cổ kính chắc không mấy ai là không biết hoặc nghe đến cái tên làng Cổ Nhuế, hay còn gọi là làng Noi - Kẻ Noi. Theo các truyền thuyết và một số tài liệu nghiên cứu thì Cổ Nhuế xưa kia vốn là một dải đất sình lầy hoang hóa ven bờ sông Hồng ở phía Tây bắc kinh thành Thăng Long.

Nghề may đang phát triển ở Cổ Nhuế

Người dân đất Thăng Long - Hà Nội cổ kính chắc không mấy ai là không biết hoặc nghe đến cái tên làng Cổ Nhuế, hay còn gọi là làng Noi - Kẻ Noi. Theo các truyền thuyết và một số tài liệu nghiên cứu thì Cổ Nhuế xưa kia vốn là một dải đất sình lầy hoang hóa ven bờ sông Hồng ở phía Tây bắc kinh thành Thăng Long.

Từ hơn 2000 năm trước, những nhóm người Việt cổ đầu tiên đã về vùng đất này định cư, sống bằng nghề trồng lúa nước và đánh bắt cá. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, các nhà khảo cổ đã đào được một số di vật dưới lòng đất ở đây như: rìu đá, hòn nghiền, hòn cà bằng đá, hòn gạch vuông có hoa văn trám lồng đời Hán (Trung Quốc), tượng cá hóa rồng thời Lý - Trần...

Tên nôm đầu tiên của Cổ Nhuế là Noi, gọi là kẻ Noi. Về nguồn gốc tên làng Noi, thì đến nay vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu nào đưa ra được lời giải xác thực, mà có một số truyền thuyết khác nhau. Trong đó có truyền thuyết kể rằng: Vùng đất này xưa kia có nhiều sông ngòi và bãi lầy, dân làng đi lại phải “lội ngòi noi nước” rất khó khăn. Thế là chòm Noi có tên từ đó.

Truyền thuyết cũng kể lại rằng: Mùa thu năm 1027, Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, tên húy là Lực, hiệu là Đông Chinh Vương đã đem quân đi dẹp loạn ở Châu Văn (thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay), có qua làng Noi, được dân làng mang lương thực, thực phẩm ra hiến cho quân sĩ làm lương ăn trên đường hành quân. Sau khi chiến thắng trở về, Đông Chinh Vương đã xin với vua cha cho hưởng thực ấp ở làng Noi. Ba xóm của làng Noi là: Hoàng - Trù - Đống trở thành dân “tảo lệ” (tức là dân được giao trông nom nhà thờ) được miễn siu dịch. Các cụ trong làng bấy giờ mới dâng sớ xin vua cho đổi tên làng Noi thành làng Cổ Nhuế theo phiên âm tiếng Hán - Việt từ chữ Kẻ Noi. Tuy nhiên cái tên kẻ Noi vẫn tồn tại cùng với Cổ Nhuế cho mãi tới sau này.

Cổ Nhuế ngày nay còn bảo tồn được rất nhiều công trình kiến trúc cổ như: Ngôi đình làng thờ Đông Chinh Vương (được tôn làm Thành Hoàng làng) xây dựng từ thời Lý. Chùa Mốc, chùa Sùng Quang xây dựng từ thời Lý (tương truyền, chùa Sùng Quang do Công chúa Minh Hiến - con vua Lý Thái Tổ góp tiền xây lên). Cây cầu đá bắc qua sông Đào chảy qua làng (được xây dựng từ năm 1726), giếng cổ xây bằng đá trong chùa Sùng Quang từ năm 1748. Miếu thờ Túc Trinh công chúa - con gái vua Trần Thánh Tông (xây dựng từ thời Trần). Ngoài ra còn có các nhà thờ đạo, nhà thờ họ và hàng chục tấm bia đá cổ ghi lại những sự kiện, những dấu ấn lịch sử ở làng Cổ Nhuế xưa. Trong đó đã có 6 công trình được cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóacấp quốc gia từ năm 1994. Chợ Noi là một trong năm chợ chính để mua bán, trao đổi hàng hóa nông sản ở ngoại thành Hà Nội xưa, cùng với chợ Vẽ (Đông Ngạc), chợ Cáo (xã Xuân Đỉnh), chợ Bưởi (phường Bưởi) và chợ Hà Đông (thị xã Hà Đông). Các chợ họp luân phiên kế tiếp nhau. Trong đó, chợ Noi họp vào các ngày mộtvà sáuâm lịch.

Trải qua hàng nghìn năm sinh tồn, nghề trồng lúa ở một vùng sình lầy lụt lội gặp rất nhiều khó khăn, nên người dân Cổ Nhuế đã làm thêm rất nhiều nghề phụ khác nhau qua từng thời kỳ. Nổi tiếng nhất cho đến ngày nay là nghề may vá. Theo các cụ già trong làng kể lại thì nghề may ở Cổ Nhuế bắt đầu có từ cuối thế kỷ 19, do 3 người thuộc dòng họ Nghiêm đi học ở nơi xa về rồi làm nghề và truyền dạy cho con cháu. ít năm sau đó, nghề may được truyền rộng khắp làng. Đến năm 1923, toàn xã đã có hàng trăm đầu máy khâu. Công việc may vá đầu tiên là phục vụ nhân dân quanh vùng, sau đó là nhận may thuê cho các chủ thầu ở Hà Nội. Một số người làm ăn khấm khá đã vào nội thành mở cửa hàng, một số khác đi may thuê cho các hiệu may ở Hàng Trống...

Bước sang thời kỳ đổi mới, nghề may ở Cổ Nhuế càng có điều kiện phát triển. Theo ước tính của những người dân nơi đây thì đầu những năm 90 của thế kỷ trước, có đến hơn 60% số hộ gia đình trong xã làm nghề may hoặc những công việc có liên quan (như vận chuyển, bán sản phẩm...). Vào gia đình nào cũng có vài ba đầu máy khâu. Các sản phẩm cắt may ở Cổ Nhuế không những có mặt ở khắp các chợ lớn nhỏ trong nội và ngoại thành Hà Nội mà còn ở nhiều tỉnh miền Bắc. Hàng may Cổ Nhuế còn được xuất khẩu ra một số nước châu Âu và châu Á (qua các công ty trung gian) như: Hàn Quốc, Nga, Ba Lan, Đức... với các loại hàng cao cấp như: veston, áo lông, áo vinilông, áo bay. Hàng may mặc Cổ Nhuế trên thị trường trong nước mùa nào cũng hết sức đa dạng, phong phú về chủng loại mẫu mã, có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng... Không phải ngẫu nhiên mà từ nhiều năm nay trên thị trường may mặc ở Hà Nội đã quen với thuật ngữ “Hàng Cổ Nhuế”.

Trong những năm gần đây, hàng may mặc Cổ Nhuế phải chịu sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm may ở trong và ngoài nước, trong đó có hàng Trung Quốc... vì vậy hình thức sản xuất nhỏ lẻ, độc lập theo từng hộ gia đình bằng máy thủ công đã được thay bằng những mô hình sản xuất tập trung thành những xưởng may lớn, sản xuất bằng dây chuyền máy may công nghiệp. Theo ước tính, Cổ Nhuế hiện nay có khoảng 50 xưởng may lớn của những doanh nghiệp tư nhân, mỗi xưởng may có từ 40 đến 50 thợ. Trong đó, có 2 doanh nghiệp đã lập Công ty TNHH là Công ty Hải Bảo, Công ty Thành Mỹ.

Chị Nguyễn Thị Đông, một thợ may lâu năm cho biết “Để giữ vững và phát triển được nghề may truyền thống, người thợ may ở đây ngoài việc phải tinh thông nghề nghiệp còn phải rất nhanh nhạy về thị trường thời trang vốn luôn thay đổi, đặc biệt là về kiểu dáng, mẫu mã và chất liệu vải”.

Cho đến nay, nghề may ở Cổ Nhuế vẫn đang đứng vững và phát triển, tạo công việc và thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao động địa phương, hàng trăm lao động ở các làng xã lân cận (do nhận hàng ở Cổ Nhuế về máy thuê). Trong nhiều năm qua, nhiều người dân Cổ Nhuế khi đi sinh sống ở các địa phương khác cũng vẫn phát huy nghề may truyền thống của quê hương. Người ta cũng không thể thống kê được có bao nhiêu thợ may đang phát đạt ở những địa phương khác đã từng học nghề ở Cổ Nhuế.

Dân làng Cổ Nhuế đã xây dựng một nhà thờ lớn để thờ 3 ông tổ nghề may của làng, hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp, dân trong làng lại tập trung tại nhà thờ để giỗ tổ nghề may.

Cổ Nhuế ngày nay đang đô thị hóa nhanh, trên địa bàn xã có 3 tuyến đường giao thông lớn chạy qua là các đường 69, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt. Không hiểu có phải “đất lành chim đậu” mà hiện nay Cổ Nhuế có tới gần 100 cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn. Trong đó có 3 trường đại học và 4 trường cao đẳng. Hàng chục dự án lớn cấp quốc gia và thành phố đang tiếp tục được triển khai...

Có thể một ngày không xa nữa, xã Cổ Nhuế (Từ Liêm) sẽ thành phường, thành phố. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, những giá trị văn hóa sâu sắc của một làng Việt cổ cùng với nghề may truyền thống ở Cổ Nhuế đã và sẽ là một phần đóng góp tích cực trong lịch sử phát triển của thủ đô ngàn năm văn hiến.

HNM

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Cổ Nhuế, đất lành

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.