Các hệ thống vệ tinh quỹ đạo tầm thấp giúp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tốc độ cao, ổn định đến cả các khu vực vùng sâu, vùng xa như nông thôn, miền núi và hải đảo...
Tại kỳ họp bất thường thứ 9, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 193/2025/QH15 thí điểm một số cơ chế, chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết là cho phép thí điểm có kiểm soát triển khai dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp (LEO) trong thời gian không quá 5 năm, kết thúc trước ngày 1-1-2031.
Việc thí điểm dựa trên nguyên tắc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc tỷ lệ đóng góp của nhà đầu tư nước ngoài.
Đây được xem là bước tiến nhằm hiện đại hóa hạ tầng viễn thông, nâng cao khả năng kết nối tại các khu vực khó tiếp cận, nơi còn hạn chế về phát triển hạ tầng viễn thông mặt đất và thúc đẩy vị thế của Việt Nam trong làn sóng công nghệ toàn cầu.
Ngay sau khi Nghị quyết được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nhanh chóng xây dựng quy định để cấp phép thí điểm. Các quy định phải đảm bảo cân bằng giữa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh mạng, đồng thời khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Theo Cục Tần số vô tuyến điện (Bộ Khoa học và Công nghệ), hệ thống vệ tinh viễn thông LEO hoạt động ở độ cao khoảng 160km đến dưới 2.000 km so với mực nước biển.
Nhờ quỹ đạo thấp, LEO mang lại độ trễ tín hiệu thấp (20-40 ms), tốc độ truyền dữ liệu cao (50-500 Mbps) và khả năng phủ sóng rộng mà không cần nhiều hạ tầng mặt đất.
Các hệ thống LEO tiêu biểu hiện nay là Starlink của Tập đoàn SpaceX, hệ thống Kupier của Tập đoàn Amazon, hệ thống Oneweb của Công ty Oneweb. Trong đó Starlink đang dẫn đầu với hơn 6.000 vệ tinh đưa vào khai thác.
Các hệ thống LEO sử dụng một số băng tần như Ku (10-15 GHz), Ka (18-30 GHz), E (70-80 GHz) để cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tốc độ cao, ổn định.
Tại Việt Nam, hạ tầng viễn thông mặt đất chủ yếu dựa trên mạng lưới cáp quang và các trạm thu phát sóng (BTS) 4G, 5G, do các nhà mạng lớn như Viettel, VNPT, MobiFone vận hành.
Các hạ tầng này mặc dù có khả năng phục vụ lượng lớn người dùng và có tốc độ cũng như độ phủ cao, song gặp thách thức lớn về chi phí xây dựng và vận hành hạ tầng trên địa hình phức tạp.
Trong bối cảnh đó, các hệ thống LEO có thể đóng vai trò như một giải pháp bổ sung để cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại các khu vực mà mạng mặt đất không thể hoặc khó triển khai, như trên biển, đảo hoặc miền núi, góp phần thu hẹp khoảng cách số.
Triển khai nhanh chóng, không cần xây dựng cáp hay trạm phát sóng, dịch vụ LEO chỉ yêu cầu lắp đặt thiết bị đầu cuối (terminal), giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.
Điều này đặc biệt hữu ích trong các tình huống như trận bão Yagi lịch sử năm 2024, khi mà đường truyền internet cáp quang, sóng điện thoại di động bị gián đoạn trên diện rộng.
Tuy nhiên, dịch vụ viễn thông của mạng LEO cũng có một số nhược điểm so với mạng mặt đất. Chi phí ban đầu của thiết bị khoảng 500-600 USD, cộng thêm phí thuê bao ước tính 50-100 USD/tháng, vượt xa khả năng chi trả của nhiều hộ gia đình nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở Việt Nam.
Mạng LEO phụ thuộc thời tiết, tín hiệu vệ tinh dễ bị gián đoạn trong điều kiện mưa lớn hoặc bão. Sử dụng tần số Ku, có thể gây xung đột với các dịch vụ viễn thông khác...
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.