(HNMO) - Hiện nay, sự thâm nhập sâu rộng của CNTT, sự phát triển vượt bậc của công nghệ mạng và internet cùng các website thông tin trực tuyến trong các lĩnh vực của cuộc sống mang lại nhiều lợi ích, nhưng đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức về an ninh bảo mật.
Hiện nay, sự thâm nhập sâu rộng của CNTT, sự phát triển vượt bậc của công nghệ mạng và internet cùng các website thông tin trực tuyến trong các lĩnh vực của cuộc sống mang lại nhiều lợi ích, nhưng đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức về an ninh bảo mật. Tình hình mất an ninh mạng đang diễn biến phức tạp và xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến việc phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Nguy cơ an ninh mạng và bảo mật an toàn thông tin (ATTT) tại các doanh nghiệp trên thị trường đang ở mức báo động khi tình trạng bị hacker, virus, malware tấn công khiến dữ liệu bị xóa, thông tin bị đánh cắp, bị theo dõi, mất quyền bảo hành, lây truyền virus sang máy tính khác, v.v… liên tục gia tăng không ngừng, gây ra hậu quả và thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế, uy tín cho doanh nghiệp về lâu dài. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân chính gây ra các nguy cơ ngày càng tăng này là do việc sử dụng và tải phần mềm không bản quyền về máy tính.
Số vụ tấn công, xâm nhập hệ thống thông tin đang gia tăng ở mức báo động về số lượng, đa dạng về hình thức, tinh vi về công nghệ trở thành mối đe dọa đối với an ninh mạng đòi hỏi những nỗ lực phòng chống mạnh mẽ hơn nữa cho hoạt động thông tin trên toàn cầu. An ninh mạng tại Việt Nam hiện đang trở thành đề tài nóng sau hàng loạt các cuộc tấn công rầm rộ vào các website tại Việt Nam kể từ cuối tháng 8 đến tháng 10 vừa qua. Thiệt hại về tài chính có thể thống kê được lên tới hàng chục tỷ đồng, nhưng những thiệt hại vô hình thì lớn hơn rất nhiều, đó là sự mất uy tín, mất lòng tin của đối tác, khách hàng vào hạ tầng CNTT của các doanh nghiệp, và lo ngại của khách hàng về việc thông tin cá nhân hay thông tin nhạy cảm có thể bị đánh cắp. Một ví dụ minh họa là cuộc tấn công được cho là có chủ đích, quy mô lớn và số lượng tấn công rất chuyên nghiệp nhằm vào một loạt các website lớn sử dụng trung tâm dữ liệu của công ty Cổ phần Truyền thông Việt Nam (VCCorp) trong 5 ngày từ 13-18/10/2014 vừa qua đã gây thiệt hại lên đến 20-30 tỷ đồng cho bản thân VCCorp và các doanh nghiệp đối tác.
Theo báo cáo từ hãng nghiên cứu thị trường IDC kết hợp với Đại học Quốc gia Singapore công bố ngày 30/5/2014 tại Hà Nội, khối doanh nghiệp tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương ước tính thiệt hại gần 230 tỉ USD chỉ trong 4 tháng đầu năm 2014 do không sử dụng phần mềm bản quyền. Trong đó, hơn 59 tỉ USD dùng để xử lý các vấn đề an ninh mạng và 170 tỉ USD dùng để khắc phục tình trạng ăn cắp dữ liệu do mã độc gây ra. Cũng theo báo cáo, khối chính phủ tại khu vực ước tính mất khoảng 50 tỉ USD để xử lý các vấn đề mã độc nằm trong các phần mềm lậu. Ngoài ra, phân tích 203 máy tính được mua mới có cài sẵn phần mềm không bản quyền, phát hiện 61% máy tính bị nhiễm phần mềm độc hại, bao gồm các mã độc trojan, sâu máy tính, virus…
Thêm vào đó, 90% phần mềm không bản quyền chứa sẵn virus và mã độc (malware), một môi trường lý tưởng cho tin tặc xâm nhập vào hệ thống thông tin. Các doanh nghiệp sử dụng phần mềm không bản quyền sẽ có nguy cơ mất 73% dữ liệu quan trọng, 55% sẽ không thể hồi phục được tất cả dữ liệu khi hệ thống chủ bị hỏng cũng như khả năng lây nhiễm virus cho đối tác, khách hàng vô cùng cao không những gây hại cho bảo mật, an ninh thông tin cho bản thân doanh nghiệp mà còn có nguy cơ lây lan ra cộng đồng.
Do đó, có thể nói, phần mềm không bản quyền được xác định là một nguyên nhân nghiêm trọng dẫn đến tình trạng tấn công an ninh mạng, làm sai lệch dữ liệu và thất thoát những thông tin quan trọng của các doanh nghiệp.
Phần mềm không bản quyền còn tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu bị điều tra hoặc liên quan đến các hoạt động pháp lý, theo Luật Việt Nam, cả dân sự lẫn hình sự. Năm ngoái, công ty TNHH Quốc tế Gold Long John tại tỉnh Đồng Nai đã phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì hành vi vi phạm bản quyền phần mềm máy tính khi phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chủ sở hữu và nộp các loại án phí.
Thực tế, chi phí đầu tư, hợp thức hóa phần mềm có bản quyền nên được coi là khoản đầu tư lâu dài. Chắc chắn rằng, những dữ liệu và thông tin của doanh nghiệp sẽ luôn được bảo vệ an toàn tối ưu bởi phần mềm có bản quyền sẽ luôn giúp người dùng “miễn nhiễm” với hiểm họa từ virus, mã độc… Đặc biệt, người sử dụng sẽ không bao giờ gặp phải những sự cố như lỗi phần mềm khiến họ phải mất thời gian cài đặt lại, thậm chí còn bị mất tài liệu do những trường hợp này gây ra.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.