Chính trị

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bài học xây dựng hệ thể chế trong kỷ nguyên mới

GS.TS Tạ Ngọc Tấn 21/08/2025 06:11

LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là mốc son mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng Nhà nước pháp quyền đầu tiên của Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mới, việc nhìn lại bài học xây dựng hệ thể chế từ Cách mạng Tháng Tám là hết sức cần thiết.

Báo Hànộimới trân trọng giới thiệu đến bạn đọc loạt bài: "Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bài học xây dựng hệ thể chế trong kỷ nguyên mới", góp phần soi sáng con đường tiếp tục hoàn thiện hệ thể chế quốc gia hiện đại, dân chủ, vững mạnh trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Bài đầu: Đặt nền móng xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện lịch sử, chính trị trọng đại của dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong tiến trình phát triển của đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia mới chưa từng có trong lịch sử Việt Nam - hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân.

Sự thay đổi căn bản về thể chế

Trước bối cảnh dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ, với mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thể chế quốc gia hiện đại, dân chủ, hiệu quả và hội nhập đang là yêu cầu tất yếu, cấp thiết đặt ra. Điều đó đòi hỏi chúng ta không chỉ hướng đến tương lai, mà còn cần phải nhìn về quá khứ, khai thác chiều sâu lịch sử để phát huy những bài học quý giá từ thực tiễn xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong bối cảnh, điều kiện lịch sử mới.

Trước năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, không có hiến pháp, không có hệ thống pháp luật độc lập. Nhà nước bảo hộ đàn áp nhân dân, bộ máy hành chính quan liêu, tòa án bất công, luật lệ thiên vị giai cấp thống trị. Hệ thống thể chế lúc bấy giờ đều hướng đến phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị và thế lực ngoại bang; hoàn toàn đối lập với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; nhân dân không có quyền dân chủ, không có quyền quyết định vận mệnh dân tộc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, phát xít Nhật và lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước ta; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay sau thắng lợi, quán triệt sâu sắc chỉ dẫn của V.I.Lênin "giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều" và điều kiện thực tiễn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẩn trương tiến hành xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ nhân dân toàn diện trên các lĩnh vực "dẫn dắt" quá trình kiến tạo, xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách mạng.

Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây không chỉ là lời tuyên bố chính trị mà còn là văn bản pháp lý nền tảng, mang tính hiến định đầu tiên, xác lập chủ quyền quốc gia và nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tự do của Nhà nước mới. Việc thiết lập chính thể cộng hòa, một nhà nước dân chủ nhân dân đã đánh dấu sự thay đổi căn bản về thể chế từ thuộc địa nửa phong kiến chuyển sang nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện có giá trị như một tuyên bố thể chế, khẳng định "quyền tự quyết dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân", đồng thời đặt nền móng cho việc xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập trên cơ sở quyền lực thuộc về nhân dân. Tuyên ngôn viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”.

Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được thành lập đã khẩn trương ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thiết lập một trật tự pháp lý mới như: Sắc lệnh về việc xây dựng, củng cố chính quyền, tòa án, quân đội; Sắc lệnh về các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội; Sắc lệnh về lĩnh vực văn hóa, giáo dục,... khẳng định tính chính danh của chính quyền cách mạng. Một trong những điểm đáng chú ý là Chính phủ lâm thời đã chủ động xóa bỏ toàn bộ hệ thống pháp luật cũ phản dân chủ, đồng thời kế thừa có chọn lọc những nội dung còn phù hợp trong tổ chức và vận hành thể chế hành chính.

Một trong những bước đi trong xây dựng hệ thể chế quốc gia dân chủ nhân dân chính là việc thiết lập cơ sở lập hiến và nền pháp quyền. Ngay từ tháng 9-1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi toàn quốc để bầu Quốc hội - cơ quan lập pháp cao nhất. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đã thể hiện đầy đủ tinh thần dân chủ của chế độ mới khi mọi công dân từ 18 tuổi đều có quyền đi bầu, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, tầng lớp xã hội. Sau Tổng tuyển cử, ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I tổ chức kỳ họp đầu tiên, thành lập Chính phủ chính thức và khởi động tiến trình lập hiến. Tháng 11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).

Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, mang đậm tinh thần pháp quyền, phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng và quyền làm chủ của nhân dân. Hiến pháp quy định rõ ràng về chế độ chính trị, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập nguyên tắc phân quyền, kiểm soát quyền lực và nền dân chủ rộng rãi. Hiến pháp năm 1946 đề cao vai trò của nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Đồng thời, cũng quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập nền tảng cho hệ thể chế dân chủ nhân dân và trở thành khuôn mẫu hiến định đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta.

Xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ trung ương đến cơ sở

Ngay sau khi giành được chính quyền, một trong những việc đầu tiên mà chính quyền cách mạng làm là đặt trọng tâm vào việc hình thành bộ máy quản trị từ trung ương đến cơ sở, coi đây là nền tảng thiết yếu của thể chế dân chủ mới. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập. Bộ máy hành pháp bước đầu bao gồm các bộ. Cùng với đó đã khẩn trương tổ chức chính quyền ở địa phương theo nguyên tắc dân chủ nhân dân. Ủy ban nhân dân và Ủy ban kháng chiến được thành lập ở các cấp xã, huyện, tỉnh, thực hiện chức năng quản lý hành chính, tổ chức kháng chiến, duy trì trật tự an ninh và cải thiện đời sống nhân dân. Các tổ chức đoàn thể cách mạng như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt), Hội Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc,... trở thành các lực lượng nòng cốt hỗ trợ xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân, tạo sự gắn kết rộng rãi giữa Đảng, chính quyền, quần chúng.

Việc thiết lập hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương được tiến hành khẩn trương và bài bản, tạo điều kiện để đất nước bước vào giai đoạn mới với tư cách một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có thể chế rõ ràng. Xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ trung ương đến cơ sở được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, gắn bó với nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra" và "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Trên tinh thần đó, ngày 22-11-1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 63/SL quy định về tổ chức Ủy ban hành chính các cấp. Quy định chỉ rõ: "Ở mỗi làng, xã... sẽ có một Ủy ban hành chính do dân bầu ra bằng cách phổ thông đầu phiếu". Việc thiết lập thể chế ở cơ sở là sự thể chế hóa nguyên tắc dân chủ trực tiếp, trao quyền cho nhân dân tự tổ chức và điều hành công việc làng, xã. Điều này thể hiện sự tôn trọng vai trò của nhân dân trong quản lý xã hội và là một cấu phần quan trọng trong hệ thể chế thống nhất từ trong mô hình quản trị hiệu quả, vừa linh hoạt trong thời chiến, vừa định hình nền hành chính dân chủ đầu tiên ở nước ta.

Xây dựng hệ thống thể chế hành chính, công vụ được Chính phủ mới đặc biệt chú trọng bởi đây là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhiều văn bản quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, quyền hạn của các bộ, ngành đã được ban hành. Các cơ quan hành chính từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã được lập và vận hành theo cơ chế hành chính mới, phù hợp với yêu cầu "quốc gia độc lập và nhân dân làm chủ". Khẳng định vai trò quan trọng của tổ chức bộ máy, trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Không có tổ chức thì làm việc gì cũng khó. Có tổ chức tốt thì việc gì cũng dễ dàng", đồng thời Người khẳng định, bộ máy hành chính phải gần dân, do dân và vì dân.

Về phân công, phân cấp trong bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy" thể hiện tư duy quản trị hiện đại, yêu cầu rõ ràng về chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm. Người cũng yêu cầu đổi mới phong cách lãnh đạo, kết hợp lý luận với thực tiễn, xây dựng một thể chế điều hành hiệu quả, thích ứng và gần dân. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, coi cán bộ, công chức là thành tố trung tâm trong thể chế công vụ, cần được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cả đạo đức và năng lực vì theo Người "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" và "Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong". Theo đó, Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành quy định về tuyển chọn cán bộ, công chức hành chính theo năng lực, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.

Trọng dụng trí thức, chuyên gia dưới chế độ cũ là những người am hiểu thể chế và vận hành xã hội. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những người như vua Bảo Đại, cụ Huỳnh Thúc Kháng và nhiều quan lại, trí thức của triều đình phong kiến được trọng dụng như Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ hình triều Nguyễn), Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim), Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại), Tham tri Đặng Văn Hướng; Vi Văn Định (cựu Tổng đốc Thái Bình), Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông)... được mời làm cố vấn và tham gia vào bộ máy nhà nước mới nhờ kiến thức, kinh nghiệm và sự tận tụy với đất nước của họ. Chính sách này thể hiện một tư duy thể chế mở, hữu dụng và bao dung, không câu nệ lý lịch mà đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Đây cũng là cách tiếp cận nhân văn trong phát triển thể chế dựa trên tri thức mà Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng hết sức linh hoạt để xây dựng hệ thể chế quốc gia trong bối cảnh chuyển giao lịch sử lúc bấy giờ.

Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên đây không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Việc thiết lập thể chế chính trị, pháp lý; xây dựng cơ sở lập hiến và pháp quyền; tổ chức quản trị hiệu quả từ trung ương đến cơ sở và trọng dụng trí thức là những trụ cột cốt lõi của hệ thể chế hiện đại.

Trong kỷ nguyên mới, việc kế thừa và phát triển những bài học đó là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển bền vững và khẳng định vị thế, uy tín trên trường quốc tế.

GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương,
nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Còn nữa)

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bài học xây dựng hệ thể chế trong kỷ nguyên mới

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.