Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đánh giá về thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Chánh cương vắn tắt của Đảng (tháng 2-1930) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) do Tổng Bí thư Trần Phú khởi thảo là Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1930 đề ra nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy dẫn dắt dân tộc ta đấu tranh giải phóng dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sau khi ra đời (3-2-1930), Đảng lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931, khôi phục phong trào 1932-1935, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong cao trào đấu tranh dân chủ 1936-1939. Đó là những cuộc “diễn tập” cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Năm 1939, Chiến tranh thế giới II bùng nổ. Tháng 11-1939, Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng xác định rõ “lúc này bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”. Đảng chủ trương đổi tên Mặt trận dân chủ Đông Dương thành Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Từ ngày 10 đến 19-5-1941, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị Trung ương 8 dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị xác định từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta một cổ hai tròng, đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp - Nhật gay gắt hơn bao giờ hết.
Đảng ta nhấn mạnh “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Đảng quyết định thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền, từ chỗ “phải giải quyết hai vấn đề “phản đế và điền địa” thì nay chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng””. Như thế, cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Sự điều chỉnh chiến lược cho thấy tư duy vô cùng sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc theo tinh thần “chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn”.
Sau thay đổi chiến lược, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc điều chỉnh chiến thuật trong việc nêu khẩu hiệu, áp dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết nhằm đánh thức được tinh thần dân tộc, tạo ra một sinh khí mới để kêu gọi, tổ chức, tập hợp lực lượng, nhất là có thể thực hiện được trong tình thế lúc bấy giờ... Cụ thể sự điều chỉnh chiến thuật đó là Nguyễn Ái Quốc thí điểm lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) và thực hiện ở một số nơi.
Sau đó, Đảng ta quyết định chính thức thành lập Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc để đoàn kết chặt chẽ mọi lực lượng yêu nước chống phát xít và thực dân. Từ đó, các tổ chức cứu quốc ra đời, như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Văn nhân cứu quốc, Giáo viên cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Học sinh cứu quốc... Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc tích cực phát triển lực lượng, gấp rút sắm vũ khí đuổi thù chung.
Đêm 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính lật đổ Pháp ở Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị xác định kẻ thù chính cụ thể trước mắt của nhân dân các dân tộc Đông Dương là phát xít Nhật. Phong trào cách mạng bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa với cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, phong phú cả về nội dung và hình thức.
Cuối tháng 7-1945, tại lán Nà Nưa (Tuyên Quang), lãnh tụ Hồ Chí Minh trao đổi với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện. Từ ngày 13 đến 15-8-1945, Hội nghị cán bộ toàn Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước giành lấy chính quyền trước khi quân đồng minh kéo vào Đông Dương.
Ngày 16 và 17-8-1945, Đại hội đại biểu quốc dân họp ở Tân Trào nhất trí với chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua mười chính sách lớn mà hàng đầu là phải giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập; lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thời cơ ngàn năm có một cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã đến. Sự lãnh đạo của Đảng rất kiên quyết, kịp thời, không do dự. Lãnh tụ Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy anh dũng tiến lên!”
Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước từ nông thôn đến thành thị, triệu người như một nhất tề nổi dậy tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa. Lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn trong cuộc Tổng khởi nghĩa. Khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố quan trọng khác giữ vai trò quyết định với thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo tài trí và bản lĩnh của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi hoàn toàn, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
(Còn nữa)
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.