Với tôi, trong làng thơ Việt đương đại, giọng thơ nữ Trương Ngọc Lan rất đặc biệt. Nói “đặc biệt” là bởi vì thơ của bà giản dị mà khó làm, giản dị mà sâu sắc.

Khi làm thơ, bà không quá chú ý đến nghề mà cứ hướng vào mình, hướng vào sự trải nghiệm của mình, hướng vào những sự vật, sự việc quanh mình mà viết thật say mê, thật chân tình và cũng thật khác người. Thơ bà mang chất tự mình và tự thân rất cao. Nếu áp vào trường hợp Trương Ngọc Lan, thì có thể nói: Thơ ca chính là đời sống vậy.
Một bài thơ, dù dài hay ngắn, dù diễn đạt dưới hình thức gì, quan trọng là phải có thông điệp tồn tại song hành cùng nó và phải có ý, có tứ khiến người đọc không chỉ được chia sẻ, mà còn được cứu rỗi, nâng vực, an ủi trong từng khoảnh khắc. Còn một khi không đáp ứng được đòi hỏi ấy thì người đọc không cần đến thơ ca nữa và đến lúc ấy, người ta có thể đặt ra câu hỏi: Vậy thì thi ca sinh ra để làm gì và còn cần cho ai nữa? Thật đáng kể khi thơ Trương Ngọc Lan đã đạt tới những tiêu chí ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ "Theo dòng mải mốt" được đặt tên cho tập thơ mới của Trương Ngọc Lan: “Xuân/ nòn nõn/ lá xanh tươi/ Hè/ chan ửng đỏ/ mắt môi/ dậy thì/ Thu/ còn mang giấu vàng đi/ Đông/ đem ướp lạnh/ gửi gì mai sau?”.
Bài thơ ngắn gọn, chỉ bốn khổ theo bốn mùa, nhưng lại có cấu trúc vòng đời, vừa gợi tự nhiên vừa mang ý nghĩa nhân sinh. Thơ rất ít chữ, chủ yếu gieo nhịp bằng sự ngắt dòng, trong đó mỗi mùa là một cụm hình ảnh, gắn liền với màu sắc, cảm giác và sự chuyển biến của con người. Nhịp điệu ngắt ngắn, dồn nén, tạo cảm giác “mải mốt” đúng như nhan đề: Đời sống cuốn đi không dừng. Bài thơ lấy vòng tuần hoàn bốn mùa để làm ẩn dụ cho đời người: Xuân - non trẻ, hè - thanh xuân, thu - chín rộ, đông - tàn phai. Điểm nhấn nằm ở câu hỏi cuối: Không còn miêu tả, mà trực diện xoáy vào nỗi trăn trở bản thể. Chính câu hỏi ấy khiến bài thơ vượt khỏi tả cảnh, trở thành suy tư hiện sinh. Như vậy, “Theo dòng mải mốt” không chỉ là bức tranh bốn mùa mà còn là quy luật của kiếp người. Điều đáng chú ý là giọng thơ không bi lụy, mà thẳng thắn, dồn nén, khơi gợi để người đọc tự vấn: Ta sẽ để lại gì, khi dòng đời trôi mải miết?
Một bài thơ đáng chú ý nữa là “Dài hơn cái chết”: “Thượng đế pha màu mắt/ Xanh như biển ngọc/ Alain Delon/ Tím hoàng hôn buồn/ Liz Taylor.../ Những vẻ đẹp hút hồn bao giấc mơ/ Bị vùi lấp bởi đời thực/ Huyền thoại tài năng với sắc đẹp chợt tắt/ Để lại tuổi tên/ Dài hơn cái chết”.
Bài thơ có dung lượng ngắn, nhưng mang trong nó một chiều sâu suy tưởng về cái đẹp, cái tài và sự hữu hạn của đời người so với sự bất tử của tên tuổi.
Đấy là 2 bài thơ đồng thời là 2 dấu ấn tiêu biểu cho lối viết, cách viết tạo thành phong cách thơ Trương Ngọc Lan bên cạnh những: “Thế thì sao?”, “Em muốn”, “Xa rồi”, “Chuông gió”, “Nương tựa”... Và những câu thơ mang chất ám gợi cho thấy một thân phận thơ, một bản lĩnh thơ, cũng không thiếu, chẳng hạn: “Thì ta lim dim/ Chìm vào bản thể/ Nhể từng nỗi đau/ Muôn vàn nhân thế”, “Ai nghĩ một khung trời bỏ ngỏ/ Lại chứa đầy tàn tích yêu thương/ Mỗi ngày mỗi đêm thêm sâu nữa/ Lại tự tay mình vuốt vết thương”, “Với những đơn côi/ Đi mãi một đời/ Hai tay ôm lấy/ Lại tuột tay rồi”...
Có lúc, Trương Ngọc Lan như lạc vào cảnh giới khác để sống với con người thực, con người tuyệt đối của mình để “Nhặt được/ Thứ âm thanh như hát/ Thứ âm thanh như sóng trời ban” (“Em muốn”), để “Đừng dìu nhau xuống miền hạ giới/ Vấp bước đường trần ngã bơ vơ” (“Thánh thót”)... Có lúc, bà rất khiêm nhường, tự nhận là “Cỏ xanh biết phận nhỏ”, cả đời “Cứ xanh đến lơ ngơ”, nhưng tình yêu của cỏ xanh với thế giới này lại lớn lao đến mức: “Không ngại đồi núi lở/ Bám đất đến muôn đời”. Cũng có lúc, bà tự nhận mình là “Nhỏ bé trước dòng đời rượt đuổi/ Của thời gian vun vút vần xoay”, nhưng ở phía bà: “Bàn chân vẫn dẫm lên tầng đất ấy/ Vẫn còn nguyên dấu ấn một ngày”.
Đọc “Theo dòng mải mốt” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025), một lần nữa, ta càng thấu hiểu hơn: “Thơ là người” theo cách cắt nghĩa bằng thơ của Trương Ngọc Lan.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.