Báo Christian Science Monitor của Mỹ viết về những bước đi mới trong đào tạo đại học ở Việt Nam, nước mà tờ báo này đánh giá có thể trở thành một con hổ mới trong giáo dục và đào tạo ở châu Á.
Trong khu học xá rợp bóng cây ở ngoại ô thành phố TP HCM đầy náo nhiệt, một chương trình đào tạo thử nghiệm đang bắt đầu.
Nơi đây, Đại học Việt Đức sẽ tuyển khoảng 220 sinh viên, chủ yếu tham gia chương trình cao học do giảng viên Đức sang dạy.
Sự khởi đầu khiêm tốn này thể hiện tham vọng của Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục bậc cao. Việt Nam hy vọng đến năm 2020, ít nhất một số trường như Đại học Việt Đức sẽ nằm trong top 200 đại học hàng đầu thế giới và đặt chuẩn cao hơn cho các trường khác.
Bằng việc đầu tư cho giáo dục bậc cao, Việt Nam hy vọng cạnh tranh với các nền kinh tế và khoa học trong khu vực như Hàn Quốc và Đài Loan. Từ năm 1990, tổng thu nhập quốc nội theo bình quân đầu người của Việt Nam tăng gấp 10 lần, lên đến hơn 1.000 USD nhờ vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài.
Nhưng hiện chưa rõ chỉ đầu tư vào giáo dục có tạo ra được lực lượng lao động lành nghề và đúng yêu cầu hay không. Một số người cho rằng vấn đề các nhà quản lý đại học có tư tưởng thủ cựu, phương pháp sư phạm lỗi thời và lương thấp cần được giải quyết trước. "Hệ thống giáo dục bậc cao của chúng tôi thật cổ xưa", giáo sư Hoàng Tụy, một nhà cải cách, bình luận.
Trường đại học Việt Đức là mô hình thay đổi. Đây là trường công lập đầu tiên tự thuê giảng viên và thiết kế nội dung giảng dạy. Chương trình học sẽ tập trung vào khoa học ứng dụng, nghiên cứu hợp tác với khối tư nhân, tương tự mô hình đại học của Đức.
Victoria Kwakwa, giám đốc quốc gia của World Bank tại Việt Nam, tổ chức tài trợ 180 triệu USD cho đại học Việt Đức, nói rằng không nên coi trường này cùng một số học viện tự quản khác là những ốc đảo ưu tú và biệt lập. "Thành công của nó sẽ chứng tỏ rằng bạn có thể vận hành hệ thống giáo dục bậc cao theo cách khác", bà nói.
Trên thực tế, Việt Nam đã chi khá nhiều cho giáo dục, từ các trường đại học tư đến đưa sinh viên ra nước ngoài du học. Ở nước này, tỷ lệ biết chữ cao, các gia đình chú trọng đến chuyện học hành của con cái. Theo World Bank, từ năm 2001 đến 2006, số sinh viên vào đại học và cao đẳng tăng từ 900.000 lến 1,6 triệu.
Theo các nhà phân tích, trở ngại chính là hầu hết sinh viên đăng ký vào các trường đại học công đã phình to hoặc các các trường tư mọc lên như nấm mà không có tầm nhìn đúng đắn. Theo một khảo sát do Liên Hợp Quốc tài trợ năm 2010, các trường đại học của Việt Nam ít thực hiện các nghiên cứu gốc. Những nghiên cứu này tốn kém và cần đến nguồn quỹ lâu dài của tư nhân hoặc xã hội bởi nguồn kinh phí từ học phí không đủ trang trải.
Trong giai đoạn ban đầu, đại học Việt Đức nhận được nguồn kinh phí chủ yếu từ chính phủ liên bang Đức. Sinh viên trường này phải trả học phí 1.500 USD mỗi năm và khoảng 60% nhận được trợ cấp về tài chính. Chính phủ Việt Nam góp 500.000 USD cho ngân sách trường mỗi năm.
Theo Wolf Rieck, hiệu trưởng đại học Việt Đức, ngân sách của trường đến năm 2030 có thể lên đến 57 triệu USD.
"Nếu họ muốn có một đại học nghiên cứu siêu việt, họ phải sẵn lòng trả tiền cho những người nghiên cứu với mức lương cạnh tranh. Nếu không, sẽ thất bại thôi", ông nhận định.
Giáo sư Tụy nghỉ hưu cách đây hai năm sau khi có sự nghiệp được công nhận ở tầm quốc tế. Thậm chí có một định lý toán học mang tên ông.
Tuy vậy, mức lương trước khi ông nghỉ hưu là 250 USD mỗi tháng kèm với chi phí nhà cửa và một vài khoản khác. Ông bổ sung thu nhập bằng cách đi giảng dạy ở nước ngoài. Một số giảng viên đại học khác kiếm tiền bằng cách dạy thêm cuối tuần và các lớp buổi tối, ông cho hay.
Các nhà giáo dục cho rằng Việt Nam nên tìm cách thu hút các tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài về Việt Nam giảng dạy, chiến lược mà Trung Quốc đang áp dụng. Vì Việt Nam không thể cạnh tranh với mức lương mà các học giả được trả ở phương tây, họ cần tạo điều kiện đeer những nhà khoa học hoặc kỹ sư đầy hứa hẹn có thể tỏa sáng.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.