(HNM) - Đến thời điểm này, một trong những ấn tượng nổi bật tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là nội dung thảo luận về các văn kiện. Ngoài 788 ý kiến phát biểu tại đoàn, 36 đại biểu đã tham luận tại hội trường, mỗi tham luận đều toát lên tâm huyết, trí tuệ và trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân; đặc biệt là tinh thần vì con người và đặt con người vào trung tâm của sự phát triển. Báo Hànộimới xin tiếp tục trích giới thiệu các tham luận tại hội trường.
Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân:
Tranh thủ tốt nhất các cơ hội, hóa giải hiệu quả thách thức
Hiện nay, thế giới đang trong giai đoạn chuyển đổi nhanh, sâu sắc, với những biến động hết sức phức tạp, chứa đựng những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của đất nước. Đại dịch Covid-19 tiếp tục làm thay đổi thế giới và cùng với các yếu tố khác đẩy toàn cầu hóa tới ngã rẽ. Sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gây nhiều lo ngại đến tính độc lập, tự chủ của các nền kinh tế.
Trong nước, chúng ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay. Chúng ta đang có nhiều thuận lợi để “vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội”...
Trên tinh thần đó, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân hơn bao giờ hết tự tin, tiếp tục đổi mới tư duy, chủ động, sáng tạo, linh hoạt, mạnh dạn đột phá, thích ứng nhanh chóng với tình hình, tranh thủ tốt nhất các cơ hội, hóa giải hiệu quả những thách thức; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhuần nhuyễn với ngoại giao Nhà nước, để bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia dân tộc.
Đối ngoại Đảng phải phát huy mạnh mẽ vai trò tham mưu chiến lược trong hoạch định và triển khai chủ trương, đường lối đối ngoại; phối hợp chặt chẽ với các kênh đối ngoại xử lý hiệu quả các vấn đề đối ngoại hệ trọng của đất nước, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ.
Đối ngoại Đảng phải tiếp tục nỗ lực để xứng đáng là một kênh tham mưu chiến lược vững chắc, chất lượng và đáng tin cậy của Trung ương Đảng. Không ngừng mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. Đặc biệt, cần tiếp tục đưa quan hệ với đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và láng giềng chung biên giới đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, gia tăng lòng tin, bồi đắp nền tảng hữu nghị, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; phát huy mạnh mẽ lợi thế đặc thù của kênh đối ngoại Đảng để góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong quan hệ song phương…
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung:
Đặt con người vào trung tâm của quá trình phát triển
Chính sách xã hội, quản lý phát triển xã hội của Đảng, Nhà nước ta luôn hướng đến mục tiêu vì con người và đặt con người vào trung tâm của quá trình phát triển. Đồng thời, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng Nhà nước đã dành 21% ngân sách cho phúc lợi xã hội, là mức cao nhất trong số các nước ASEAN, nhờ đó đã thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
Cụ thể là, chính sách người có công với cách mạng luôn được quan tâm đặc biệt, đời sống người có công không ngừng được nâng lên. Đến nay, 99,7% hộ gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú. Trong cuộc chiến chống đói nghèo, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo; là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Việt Nam là một trong 10 nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trên thế giới. Chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi.
Các văn kiện Đại hội XIII đã đề cập đầy đủ, toàn diện về định hướng quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội. Để đạt mục tiêu phát triển bền vững, chúng tôi đề xuất trước hết thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng theo nguyên tắc bù đắp, cống hiến, đóng góp, hy sinh và công bằng; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp cận với chuẩn nghèo đa chiều, bao trùm để hỗ trợ người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tích hợp chính sách giảm nghèo, giảm các chính sách hỗ trợ trực tiếp, tạo sinh kế bền vững cho người nghèo... Thứ nữa là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở tiếp tục đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo. Đồng thời, phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; phát triển việc làm bền vững, nhất là cho thanh niên và lao động trung niên; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%; giảm lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp xuống dưới 25% vào năm 2025 và dưới 20% vào năm 2030.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến:
Khơi dậy tinh thần tự lực, khát vọng vượt khó vươn lên
Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã có bước phát triển mới; đời sống của đồng bào được nâng lên rõ rệt.
Hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm 2-3%; các xã, thôn đặc biệt khó khăn giảm 3-4%; các huyện nghèo giảm 4-5%, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo toàn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thôn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 106 xã từ đặc biệt khó khăn phấn đấu trở thành xã nông thôn mới; có 27 huyện ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất.
Chúng tôi nhất trí cao với phương hướng, mục tiêu chung về công tác dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần tiếp tục đổi mới tư duy, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, thực hiện đồng bộ, hiệu quả 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Trong đó, phải kiên định, kiên trì thực hiện các quan điểm, đường lối của Đảng; tiếp tục khẳng định đại đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược, vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, phải tiếp tục hoàn thiện, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng toàn diện, bền vững; phát huy tiềm năng, lợi thế, khơi dậy tinh thần tự lực, khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào. Nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án, mở rộng vốn tín dụng ưu đãi đối với các dự án tạo sinh kế cho đồng bào; đa dạng hóa và xã hội hóa nguồn lực, trong đó, nguồn lực nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định để huy động các nguồn lực khác.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với tập quán của từng dân tộc. Phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Chú trọng phát triển du lịch sinh thái, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc...
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang:
Bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện tốt vai trò
Cùng với sự lớn mạnh của tổ chức Công đoàn, giai cấp công nhân Việt Nam đã lớn mạnh về số lượng, trưởng thành về chất lượng và khẳng định, phát huy vai trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tính đến nay, cả nước có khoảng 24,5 triệu lao động làm công hưởng lương, trong đó công nhân lao động trong doanh nghiệp chiếm khoảng 60%. Công nhân nước ta ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, bước đầu hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại; ngày càng có nhiều cơ hội việc làm, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được cải thiện.
Tuy chỉ chiếm tỷ lệ trên 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hằng năm giai cấp công nhân Việt Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước. Về xã hội, giai cấp công nhân với bản lĩnh cách mạng và tính tích cực chính trị - xã hội thật sự là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những năm tới, điều kiện, môi trường hoạt động của tổ chức Công đoàn, sự phát triển của giai cấp công nhân dự báo sẽ có những thay đổi quan trọng. Công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức mới...
Để “tổ chức Công đoàn Việt Nam mãi mãi xứng đáng là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước ta; đội ngũ công nhân, viên chức, người lao động không ngừng lớn mạnh, là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, tôi cho rằng, trước hết cần tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động công đoàn. Tạo điều kiện phát huy vai trò của công đoàn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi. Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Lãnh đạo việc tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách tiền lương, tiền công, các chính sách phúc lợi và dịch vụ xã hội, bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện tốt vai trò vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa được thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp vẻ vang này tương xứng với sự đóng góp của họ, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội.
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Thường trực Tòa án nhân dân Tối cao Lê Hồng Quang:
Cải cách tư pháp vì sự phát triển của đất nước
Đẩy mạnh cải cách tư pháp là xu thế tất yếu nhằm tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền. Cải cách tư pháp để chúng ta có được nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như mục tiêu Nghị quyết số 49-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đề ra, cũng là kỳ vọng về tương lai dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.
Kế thừa thành quả của thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, căn cứ Kết luận số 84-KL/TƯ của Bộ Chính trị về tổng kết Nghị quyết 49-NQ/TƯ trong đó xác định: Nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có nội dung về cải cách tư pháp, Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân Tối cao cho rằng trước hết là phải kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp.
Thứ nữa là cải cách tư pháp vì sự phát triển của đất nước. Xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng, chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo. Tiếp đó là xây dựng nền tư pháp vì nhân dân phục vụ. Hoạt động tư pháp phải đặt người dân vào vị trí trung tâm. Tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động theo hướng bảo đảm trong sạch, tinh gọn, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt động tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện chế định hội thẩm nhân dân; cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan dân cử và nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Tận dụng sự phát triển của công nghệ thông tin hướng tới xây dựng “tòa án thông minh”, “tòa án điện tử”. Đề cao vị trí, vai trò của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống chính trị; xác định đây là thiết chế độc lập; có cơ chế phù hợp bảo đảm độc lập tư pháp. Chúng ta cũng cần kế thừa và phát huy kinh nghiệm cải cách tư pháp đã đạt được; tập trung giải quyết những nhiệm vụ cải cách chưa hoàn thành; tiếp thu những thành tựu khoa học pháp lý tiên tiến.
Mặt khác, phải xây dựng cơ chế phù hợp, hạn chế tác động từ những chủ thể khác đối với hoạt động tư pháp; thực hiện nghiêm nguyên tắc “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Hà Thị Nga:
Coi di cư lao động là vấn đề phát triển
Di cư lao động là xu hướng tất yếu hiện nay, gắn với phát triển và có vai trò nhất định đối với kinh tế - xã hội, nhất là trong việc phân bổ lại nguồn lực lao động quốc gia. Tuy nhiên, từ góc độ an sinh xã hội, đang đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt đối với những lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. Kết quả điều tra cho thấy, 13,6% dân số cả nước là người di cư; trong đó, nữ giới chiếm 55,5%. Hầu hết họ di cư đến làm việc trong các khu công nghiệp, đến thành phố làm các công việc ở khu vực phi chính thức.
Đặc biệt, với những người lao động di cư, nhà ở là vấn đề hết sức bức thiết. Theo một thống kê, khoảng 80% công nhân đang phải thuê nhà ở trong các khu nhà trọ. Số công nhân được ở trong các khu nhà do doanh nghiệp xây dựng rất thấp.
Để bảo đảm quyền có nơi ở, chỗ ở, Nhà nước cần tiếp tục coi trọng vấn đề nhà ở là phúc lợi của người dân để có chính sách đầu tư thỏa đáng, từng bước giải quyết vấn đề này, trong đó có lực lượng lao động di cư. Đồng thời tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ công về giáo dục, y tế cho con em và gia đình phụ nữ khó khăn, lao động nữ di cư.
Về mặt nhận thức, phải coi di cư lao động là vấn đề phát triển, các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, địa phương cần tính tới dân số di cư để có thể bảo đảm các chính sách cho phù hợp.
Có thể nói, tình hình mới đang tạo ra nhiều cơ hội song cũng đi kèm không ít thách thức cho phụ nữ. Những thách thức ấy nếu được quan tâm giải quyết sẽ tác động tích cực đến việc cải thiện điều kiện của phụ nữ trong vai trò người mẹ, người lao động và người công dân.
Qua nghiên cứu và từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, thay mặt cho phụ nữ cả nước, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đề nghị Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt, cần coi đây là nền tảng phúc lợi, là ưu việt mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại cho mỗi người dân để từng bước quan tâm giải quyết.
Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh:
Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Dù không phải là địa phương có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn nhất vùng, nhưng Cần Thơ là nơi hội tụ nhiều tiềm năng, lợi thế và đang có nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm khoa học, công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực.
Với những tiềm năng, lợi thế và những kết quả đạt được bước đầu cũng như đứng trước yêu cầu phát triển của vùng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Cần Thơ quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 59-NQ/TƯ ngày 5-8-2020 của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã định hướng phát triển cho Cần Thơ phải trở thành một trung tâm khoa học - công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực. Vì sự phát triển của thành phố Cần Thơ không chỉ cho Cần Thơ mà còn phải “thể hiện vai trò trung tâm vùng, dẫn dắt và có tác động lan tỏa tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương khác trong vùng”.
Để làm được điều này, thành phố Cần Thơ đề xuất các định hướng phát triển khoa học - công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp gồm 5 giải pháp. Trong đó, về quan điểm phát triển, thành phố phải tập trung chuyển đổi mạnh mẽ các hoạt động khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo sang cơ chế thị trường với hệ thống các giải pháp thúc đẩy cả về phía cung - tức là tiềm lực nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ của thành phố và phía cầu (doanh nghiệp nông nghiệp và người nông dân) đồng bộ với các giải pháp liên kết cung - cầu, phát triển thị trường khoa học - công nghệ hoạt động hiệu quả.
Đồng thời, thành phố phải tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ. Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo không phải là một mục đích tự thân. Thực chất, đó là phương thức mà thông qua đó, người dân và doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành và giành được lợi thế hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Bên cạnh đó, phải tăng cường đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ của thành phố (bên cung) với sự gia tăng vai trò của khu vực doanh nghiệp. Có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển nguồn lực trình độ cao về nông nghiệp cho các viện nghiên cứu khoa học, trường đại học và các đơn vị khoa học của thành phố...
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Quốc Phong:
Chuyển đổi sang “tư duy kinh tế nông nghiệp”
Để phát huy nội lực và sức sáng tạo, chuyển đổi từ “tư duy sản xuất nông nghiệp” sang “tư duy kinh tế nông nghiệp” thích ứng với biến đổi khí hậu và xu thế thị trường, chúng tôi cho rằng, trước hết, cần có nghiên cứu để tính toán đầy đủ hơn đóng góp của khu vực nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế theo xu thế hiện nay, không chỉ dựa vào năng suất, sản lượng, giá trị gia tăng làm thước đo cho sự tăng trưởng của ngành, mà cần chú trọng hơn đến “lợi nhuận đạt được” của sản phẩm nông nghiệp.
Ngoài ra, cần có sự nghiên cứu, xem xét tách quy định về phát triển hợp tác xã nông nghiệp thành một luật hoặc nghị định riêng của Chính phủ; hỗ trợ phát triển mô hình “Vườn ươm doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao”, tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho hoạt động của “vườn ươm”, mà cả cho việc khuyến khích nhu cầu sáng tạo, kinh doanh của phía cầu và thúc đẩy tăng cường các dịch vụ hướng đến doanh nghiệp khởi nghiệp từ phía cung.
Đồng thời, cần quan tâm tổ chức, xây dựng đầy đủ nguồn cơ sở dữ liệu thông tin ngành Nông nghiệp, thông tin về hoạt động đầu tư cũng như nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước đối với từng mặt hàng nông sản để có những đánh giá, dự báo chuyển động của thị trường, đưa ra các khuyến cáo phù hợp. Từ đó, Nhà nước sẽ có đủ thông tin để đề ra những chính sách phù hợp với thực tế sản xuất; người sản xuất, doanh nghiệp cũng có đủ thông tin để tự tính toán, đề ra cho mình phương án, lộ trình đầu tư, phát triển sản xuất theo hướng dài hạn, chuyên nghiệp hơn. Cần có nghiên cứu khoa học để nhanh chóng đề ra giải pháp tối ưu và có sự đầu tư kịp thời cho việc thích ứng với biến đổi khí hậu và sự suy giảm về số lượng, chất lượng nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là sự thay đổi giảm lưu lượng, dòng chảy sông Mê Kông và tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đang diễn biến phức tạp.
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng Trần Đức Quận:
Đã có “nông dân thế hệ mới” dám nghĩ, dám làm
Những năm qua, nông nghiệp Lâm Đồng có bước phát triển vượt bậc về quy mô, năng suất, giá trị, thu nhập trên một đơn vị diện tích và cả nguồn nhân lực. Hiện giá trị sản xuất bình quân đạt 185 triệu đồng/ha/năm, tăng 27,5% so với năm 2016. Năng suất lao động trong nông nghiệp bằng 1,26 lần và giá trị sản phẩm trên 1ha bằng 1,84 lần so với cả nước.
Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi tư duy, nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân kể cả ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã có “nông dân thế hệ mới” dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn ứng dụng khoa học, công nghệ, bỏ vốn đầu tư, chủ động khai thác thị trường, liên kết sản xuất tạo ra chuỗi giá trị tham gia có hiệu quả vào thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Toàn tỉnh hiện có khoảng 165 chuỗi với sự tham gia của 197 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở và gần 17.000 hộ nông dân, giá trị sản xuất thông qua chuỗi chiếm khoảng 20% tổng giá trị sản xuất ngành Nông nghiệp. Đến nay tỉnh Lâm Đồng có 60.200ha sản xuất ứng dụng công nghệ cao, chiếm 20% diện tích, hình thành 19 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô diện tích khoảng 3.900ha trải đều trên 12 huyện, thành phố trong tỉnh; có 13 doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Các hiệp định thương mại tự do đang mở ra nhiều cơ hội lớn cho nông sản Việt Nam, trong đó có nông sản Lâm Đồng. Tuy nhiên, việc vượt qua các rào cản kỹ thuật, yêu cầu của các thị trường này sẽ là những thách thức không nhỏ. Trong giai đoạn tới, Lâm Đồng tập trung triển khai kiểm soát phát triển chất lượng nông sản và nông sản chế biến; lấy thị trường làm trọng tâm để tổ chức sản xuất, thiết kế và phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và thế giới.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.