(HNM) - Dịch Covid-19 đang ngày càng “ngấm sâu” và bào mòn “sức khỏe” cộng đồng doanh nghiệp. Trong bối cảnh này, Chính phủ đã, đang tiếp sức và đồng hành với doanh nghiệp để vượt qua giai đoạn khó khăn. Phóng viên Báo Hànộimới đã trao đổi với Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Nguyễn Minh Thảo về vấn đề này.
Tiềm lực, sức chống chịu đã tới giới hạn
- Dịch Covid-19, nhất là đợt bùng phát lần thứ tư, đã ảnh hưởng trên diện rộng, khiến doanh nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng phải không thưa bà?
- Đúng vậy, làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư kéo theo các đợt giãn cách xã hội liên tiếp tại nhiều địa phương khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề. Đơn cử một vài con số để nhận thấy hậu quả nghiêm trọng của dịch Covid-19, đó là trung bình mỗi tháng có 10 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường; lao động ở nhiều tỉnh, thành phố không có việc làm, trong đó riêng đợt dịch lần thứ tư ước tính có hơn 12 triệu lao động chịu ảnh hưởng tiêu cực… Tiềm lực, sức chống chịu của nhiều doanh nghiệp đã tới giới hạn; nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Là đơn vị nghiên cứu về chính sách, bà có thể cho biết rõ hơn những khó khăn của doanh nghiệp hiện nay?
- Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhưng chủ yếu là bị mất kết nối với đối tác, khách hàng do đứt gãy nguồn cung đầu vào. Trong khi đó, đầu ra cũng bị ảnh hưởng do thiếu đơn hàng. Giãn cách xã hội cũng làm thiếu nhân công cục bộ, gây đứt gãy chuỗi cung - cầu do thắt chặt hoạt động lưu thông giữa các địa phương… Doanh nghiệp lại phải chịu chi phí cao hơn để đối phó với dịch bệnh.
- Nhiều giải pháp phòng, chống dịch Covid-19 được đưa ra, trong đó có cả giải pháp chưa có tiền lệ, đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bà đánh giá thế nào về điều này?
- Đã có một số bất cập trong thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh xảy ra. Đó là những quyết định “chưa có tiền lệ” của một số địa phương dẫn tới can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, như việc kiểm soát lưu thông hàng hóa, yêu cầu xét nghiệm liên tục... Tất nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát, ưu tiên bảo đảm an toàn cho người dân phải đặt lên hàng đầu, song cách thức này vô tình làm doanh nghiệp dễ tổn thương hơn. Đơn cử, trong các ngành hàng xuất khẩu thì chỉ một số ít (15-20%) đơn vị duy trì được hoạt động sản xuất, còn lại đều phải tạm ngừng hoạt động. Điều này gây thiệt hại nặng nề cho doanh nghiệp khi không có doanh thu nhưng vẫn phải chi trả nhiều khoản chi phí như nhà xưởng, kho bãi, lãi suất ngân hàng, trả lương chờ việc…
- Chắc thiệt hại không chỉ về chi phí, thưa bà?
- Chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế có thể bị đứt gãy nặng nề hơn. Hiện, khoảng 20% doanh nghiệp châu Âu chuyển đơn hàng ra khỏi Việt Nam. Rất khó để họ quay trở lại, đặc biệt là khi dây chuyền sản xuất đã được mở rộng ở nơi khác. Vì thế, việc này sẽ làm mất cơ hội cho doanh nghiệp nước ta.
- Đến nay, các địa phương đang từng bước nới lỏng giãn cách xã hội. Bà thấy còn lo ngại gì không?
- Tôi cho rằng, vấn đề quan trọng hiện nay là khi các địa phương nới lỏng giãn cách xã hội, từng bước mở lại hoạt động sản xuất, kinh doanh thì việc đưa người lao động trở lại làm việc như thế nào? Nhiều lao động chưa thể trở lại thành phố để làm việc do chưa được tiêm vắc xin đầy đủ. Như vậy, khi mở lại hoạt động sản xuất, doanh nghiệp sẽ tiếp tục gặp khó về vấn đề lao động và chi phí để duy trì các biện pháp phòng dịch. Do đó, rất cần sự hỗ trợ và đồng hành của Chính phủ, chính quyền địa phương trong nỗ lực duy trì sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Cần bảo đảm hiệu quả hỗ trợ
- Thực tế, từ khi dịch Covid-19 bùng phát, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, như giảm lãi suất vốn vay ngân hàng; giãn thời hạn nộp thuế, giảm thuế, phí… Bà đánh giá thế nào về công tác hỗ trợ doanh nghiệp?
- Ngay sau khi dịch Covid-19 xảy ra ở Việt Nam, Chính phủ, các cấp, ngành đã nhanh chóng ban hành các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội. Việc giảm lãi suất vốn vay ngân hàng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ; hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí; tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí; giảm tiền điện…, đã được triển khai kịp thời, phần nào hỗ trợ doanh nghiệp giảm bớt những khó khăn do dịch bệnh gây ra, nhất là góp phần giữ niềm tin, động viên doanh nghiệp vượt khó.
Doanh nghiệp đánh giá rất cao các chính sách hỗ trợ song cũng cho rằng, việc triển khai có lúc, có nơi còn bất cập, chưa đáp ứng được sự mong đợi của doanh nghiệp.
- Bà có thể nêu cụ thể hơn về vấn đề này?
- Cụ thể, thời gian hỗ trợ ngắn trong khi dịch bệnh diễn biến khó lường. Một số giải pháp ít có ý nghĩa bởi doanh nghiệp khó đáp ứng điều kiện đặt ra. Đơn cử gói hỗ trợ lần 1, nhiều yêu cầu đặt ra không khả thi, khó đáp ứng, chưa phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở đánh giá lại hiệu quả gói hỗ trợ lần 1, Chính phủ đã phê duyệt gói hỗ trợ lần 2 (theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1-7-2021 về một số chính sách hỗ trợ lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19) nhằm khắc phục những bất cập của gói hỗ trợ lần 1, với mục tiêu góp phần hỗ trợ hiệu quả và thực chất cho doanh nghiệp và người lao động.
- Theo bà, các giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả lúc này là gì?
- Thứ nhất, tất cả hàng hóa (trừ hàng cấm) phải được lưu thông. Có lưu thông hàng hóa thì doanh nghiệp mới duy trì được sản xuất. Thứ hai, Chính phủ cần đưa ra hướng dẫn thống nhất về các phương án kiểm soát dịch bệnh với các tiêu chí dễ hiểu, dễ thực hiện; tránh tình trạng mỗi địa phương hiểu và ban hành quy định theo một cách khác nhau… Thứ ba, các địa phương khi quyết định phương án phòng dịch cần thông tin và tham vấn doanh nghiệp trên địa bàn để bảo đảm thực hiện “mục tiêu kép”, tránh tình trạng đưa ra quyết định bất ngờ, khiến doanh nghiệp không kịp trở tay.
Điều đáng mừng là trong mọi hoàn cảnh, Chính phủ luôn đồng hành, chia sẻ khó khăn với cộng đồng doanh nghiệp. Chính phủ cũng đã linh hoạt trong chỉ đạo thực hiện “mục tiêu kép”, nhất là mới triển khai chủ trương chuyển trạng thái từ “không Covid-19” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-19” và đang khẩn trương xây dựng hướng dẫn để thực hiện chủ trương này.
- Bà ủng hộ việc trao quyền chủ động nhiều hơn cho doanh nghiệp trong phòng, chống dịch, bảo vệ sản xuất?
- Đúng vậy. Nên trao quyền chủ động cho họ trong việc lựa chọn mô hình vận hành và phương thức tổ chức sản xuất trong bối cảnh dịch bệnh vẫn phức tạp. Không đóng cửa doanh nghiệp nếu lây nhiễm chỉ trong phạm vi hẹp của một dây chuyền, phân xưởng riêng biệt. Tránh tình trạng áp dụng cứng nhắc các phương thức tổ chức sản xuất “3 tại chỗ” hay “1 cung đường 2 điểm đến” như vừa qua.
Cần cho doanh nghiệp chủ động thực hiện xét nghiệm Covid-19 bởi nhiều đơn vị có y tế tại chỗ đủ năng lực thực hiện. Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm với kết quả của mình.
Như Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu, chính quyền phải gần doanh nghiệp, lắng nghe doanh nghiệp hơn, coi doanh nghiệp là chủ thể tham gia xây dựng phương án phòng, chống dịch và phát triển kinh tế của địa phương… Cuối cùng là các cấp, các ngành tiếp tục duy trì, bổ sung các chính sách hỗ trợ tổng thể cho doanh nghiệp, người lao động; qua đó, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này.
- Trân trọng cảm ơn bà!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.