LTS: Thảo luận về các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, sáng 23-1, các đại biểu đã đề xuất nhiều giải pháp để thực hiện tốt đường lối đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, huy động các nguồn lực phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn tới. Báo Hànộimới tiếp tục trích giới thiệu một số tham luận cùng bạn đọc.
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh:
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trong quan hệ đối tác
Để hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm về hội nhập quốc tế được nêu trong Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, đối ngoại cần tập trung làm tốt các công việc sau:
Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại được Đại hội XII của Đảng thông qua, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế. Theo đó, cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân.
Thứ tư, triển khai các định hướng lớn về hội nhập được nêu trong Văn kiện Đại hội, tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao của các nước ASEAN.
Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, hiện đại. Ảnh: Xuân Chính |
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương Phạm Xuân Đương:
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
Trong ASEAN, thứ hạng chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2015 của Việt Nam chỉ cao hơn các nước còn lại trong ASEAN-4 (Lào, Myanmar, Campuchia, Việt Nam). Có 7/12 lĩnh vực mà Việt Nam thậm chí còn đứng sau một vài nước ASEAN-4 về thứ hạng toàn cầu. Khả năng theo kịp các nước ASEAN-6 còn xa, trong khi nguy cơ bị các nước ASEAN-4 vượt qua cũng là một thách thức. Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 đã chỉ ra 5 nhóm vấn đề được coi là trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam, gồm: “Tiếp cận tài chính”, “Chính sách không ổn định”, “Lao động qua đào tạo không đủ”, “Kỷ luật lao động kém” và “Tham nhũng”.
Việc đề ra các giải pháp thiết thực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là rất cần thiết nhằm tranh thủ hiệu quả cơ hội và lợi ích của các cam kết hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân khách quan, chủ quan và các nhóm nhân tố chủ yếu nói trên, Ban Kinh tế Trung ương kiến nghị sớm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện tốt Đề án tổng thể về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam với những quan điểm: Tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là giải pháp then chốt để phát triển kinh tế và hiện thực hóa các cơ hội của hội nhập quốc tế, tạo động lực phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp theo hướng năng động, đổi mới và sáng tạo, thực hiện thành công ba đột phá chiến lược trong quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế.
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương Thào Xuân Sùng:
Đảng phải vì dân và dựa vào dân
Vì dân và dựa vào dân để xây dựng Đảng là một trong những tư tưởng lớn, ở tầm chiến lược, định hình trong chủ thuyết xây dựng Đảng lãnh đạo, cầm quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính bản thân Người thể hiện sinh động trong quá trình hoạt động cách mạng của mình với lòng tin và sự yêu thương nhân dân vô bờ bến. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rất cụ thể: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, đến bất kỳ ở cấp nào và ngành nào, đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Vì thế, tư tưởng nhân dân là gốc, nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ, nhân dân là lực lượng to lớn và cần có Đảng dẫn đường, Đảng phải vì nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân mà then chốt là xây dựng đội ngũ cán bộ biết vận động, thuyết phục nhân dân chính là điều cốt yếu và hệ trọng của lý luận về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, là một trong những tiêu chuẩn mẫu mực của một Đảng Cộng sản luôn chăm lo xây dựng nền tảng chính trị, tư tưởng và đạo đức cách mạng của mình vì nhân dân. Xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân không chỉ là cơ sở lý luận của công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn là chỗ kết tinh và hợp điểm của toàn bộ nội dung xây dựng Đảng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức, lối sống.
Đồng thời với việc phát huy những thành tựu quan trọng đã đạt được trong xây dựng quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Đảng ta phải chăm lo xây dựng tiềm lực tư tưởng, lý luận, trí tuệ của mình để bảo đảm sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng, ý Đảng hợp với lòng dân đi đôi với đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng lãnh đạo xây dựng và tăng cường được quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc tạo nên sức mạnh của Đảng ta. Vì vậy, các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đều phải được Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân tham gia ý kiến, được đúc kết từ trong thực tiễn cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích thiết thân của nhân dân, được nhân dân đồng thuận ủng hộ và tự giác thực hiện.
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng:
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Yêu cầu vai trò đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động ngày càng lớn và cấp bách, nhất là khi các hiệp định thương mại tự do và đặc biệt là TPP có hiệu lực, có thể xuất hiện tổ chức đại diện người lao động ngoài tổ chức Công đoàn Việt Nam cùng tồn tại hoạt động. Điều này đang đặt ra nhiều thách thức không chỉ đối với tổ chức công đoàn mà còn đối với cả hệ thống chính trị nếu tổ chức công đoàn hoạt động yếu kém, không hiệu quả.
Nếu không tập trung xây dựng được tổ chức công đoàn vững mạnh, để công đoàn phát huy tốt vai trò của mình thì sẽ có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức sống của Đảng, tiềm ẩn những nguy cơ xói mòn, trực diện vào cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị. Do vậy, để tổ chức công đoàn thực sự trở thành cơ sở xã hội vững chắc của Đảng, người cộng tác đắc lực của Nhà nước, tạo sức mạnh tổng hợp của dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, trước hết phải luôn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, phải đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, cơ hội, biến chất, xu nịnh, cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để bảo đảm vai trò lãnh đạo cầm quyền và Đảng cần phải thực sự chăm lo xây dựng bền vững cơ sở giai cấp, cơ sở quần chúng và cơ sở tổ chức của Đảng. Kết nạp những công nhân ưu tú, những người mang bản chất của giai cấp công nhân thật sự. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến đường lối, chiến lược của Đảng, đặc biệt là đến lòng tin của giai cấp công nhân, đối với Đảng và cả hệ thống chính trị. Hơn lúc nào hết phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đảng Cộng sản không mang bản chất giai cấp công nhân, không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân thì không còn là một Đảng tiên phong cách mạng”.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền:
Không ngừng nâng cao đời sống cho người dân
Bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh. Trong những năm khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua, dù nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đối với các chính sách xã hội. Giai đoạn 2012-2015 đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội của nước ta. Hệ thống chính sách, pháp luật tiếp tục mở rộng hơn quyền hưởng và mức hưởng các chế độ ưu đãi xã hội và ASXH cho người dân, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm, tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn tới, tôi cho rằng cần tiếp tục cải cách thể chế kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP trong thời gian tới trên 6,5%/năm để có thêm việc làm, thu nhập và nguồn lực chi cho ASXH. Tập trung thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TƯ ngày 1-6-2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”. Quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt ASXH, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân...
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa:
Cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực nữ
Cần nhấn mạnh rằng, nguồn nhân lực được coi là một nguồn vốn xã hội và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của Đảng ta. Với 50,7% dân số, 48,47% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ đóng góp tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ là nội dung không thể thiếu trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, là nền tảng tiến tới bình đẳng giới, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; đồng thời góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam. Mặt khác, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ sẽ gắn liền với vai trò làm mẹ, với việc chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, nâng cao chất lượng dân số, góp phần thực hiện bình đẳng giới, xây dựng gia đình trở thành tế bào lành mạnh của xã hội, tái tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là tiền đề quan trọng để có những thế hệ người Việt Nam khỏe mạnh, có phẩm chất, năng lực trong tương lai. Yêu cầu đó đòi hỏi cần có những chính sách, chương trình đặc thù đối với nguồn nhân lực nữ.
Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp chính sách đối với lao động nữ…”. Trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN vừa được hình thành, Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương TPP, Liên hợp quốc đã thông qua mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, từ thực tiễn đất nước, tiềm năng của phụ nữ và những vấn đề đặt ra nêu trên, phụ nữ Việt Nam trân trọng đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo, xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nữ Việt Nam giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh:
Hướng cho thanh niên rèn luyện theo tiêu chí “Tâm trong - Trí sáng - Hoài bão lớn”
Cần thẳng thắn thừa nhận, công tác giáo dục thanh thiếu nhi vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiều tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác giáo dục thế hệ trẻ chưa kịp thời và hiệu quả; nhiều mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu. Vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; khả năng hội nhập của thanh niên còn nhiều hạn chế. Những hạn chế trên có trách nhiệm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xác định cần tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống cho thế hệ trẻ bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, với sự tham gia, phối hợp có trách nhiệm của ngành Giáo dục, gia đình, đoàn thể và toàn xã hội. Đổi mới nội dung và cách thức học tập 6 bài học lý luận chính trị phù hợp với từng đối tượng đoàn viên. Gắn việc giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa với triển khai sáng tạo Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó đề cao sự nêu gương của cán bộ Đoàn, Hội, Đội, định hướng cho thanh niên rèn luyện theo tiêu chí “Tâm trong - Trí sáng - Hoài bão lớn”. Tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền định kỳ gặp gỡ, trao đổi, đối thoại với thanh thiếu nhi. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, chủ động nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong thanh thiếu nhi, nhất là ở các thành phố lớn và địa bàn nhạy cảm. Tăng cường phối hợp với các cấp, các ngành tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đấu tranh, phê phán, uốn nắn nhận thức lệch lạc, biểu hiện sai trái trong cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi.
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Trà Vinh Sơn Thị Ánh Hồng:
Quan tâm xây dựng cốt cán, người có uy tín trong cộng đồng
Chúng tôi rất tán thành những quan điểm về công tác dân tộc, tôn giáo được nêu trong Văn kiện Đại hội, đó là “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số... chống kỳ thị dân tộc, chống những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”; và “... phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, hoặc những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật”. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, giải pháp. Một trong những giải pháp không kém phần quan trọng là phát huy tốt vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Từ thực tiễn và kinh nghiệm công tác vận động, xây dựng và phát huy vai trò của người có uy tín trên địa bàn tỉnh Trà Vinh thời gian qua chúng tôi cho rằng, trước hết cần tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo vững mạnh, tạo niềm tin của đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng, thành công của sự nghiệp đổi mới. Quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc, tôn giáo nói chung và quan tâm xây dựng cốt cán, người có uy tín trong đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Lê Trường Lưu:
Bổ sung nội dung “tăng trưởng xanh và bền vững”
Chúng tôi đề nghị Trung ương bổ sung vào Báo cáo chính trị nội dung “tăng trưởng xanh và bền vững” và xem đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa lâu dài; đồng thời, nghiên cứu bổ sung một số địa phương có ưu thế vượt trội về tăng trưởng xanh, trong đó có Thừa Thiên Huế để xây dựng “mô hình mẫu” nhằm thực hiện có hiệu quả Chiến lược tăng trưởng xanh gắn với xây dựng thành phố thông minh vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020. Trên cơ sở đó, quan tâm hỗ trợ nguồn lực để đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững.
Bên cạnh việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, Thừa Thiên Huế nhận thấy cần phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao để tạo bứt phá trong phát triển kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các địa phương trong khu vực. Đề nghị Trung ương và các ban, bộ, ngành quan tâm định hướng, giới thiệu các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn đến đầu tư, nhất là đối với các dự án thuộc lĩnh vực du lịch, công nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, có cơ chế đặc thù, thông thoáng và tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện “mô hình mẫu” về tăng trưởng xanh được phát triển các dịch vụ đặc thù như: Casino, du lịch sinh thái gắn với khám, chữa bệnh, du lịch đầm phá...
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.