(HNMO) - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài phát biểu khai mạc Hội nghị Cấp cao lần thứ 2 Ủy hội sông Mekong quốc tế...
Sự kiện này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta chuẩn bị kỷ niệm 20 năm ngày ký Hiệp định hợp tác Mekong và thành lập Ủy hội sông Mekong quốc tế năm 1995.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu khai mạc Hội nghị Cấp cao lần thứ hai Ủy hội sông Mekong quốc tế. |
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đánh giá cao nỗ lực của Ban thư ký Ủy hội trong việc phối hợp tổ chức thành công Hội nghị quốc tế với chủ đề “Hợp tác về an ninh nguồn nước, năng lượng, lương thực ở các lưu vực xuyên biên giới trong bối cảnh biến đổi khí hậu”.
Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng bày tỏ lo ngại đối với lưu vực sông Mekong trong giai đoạn hiện nay khi cho rằng: “Chưa bao giờ lưu vực sông Mekong đứng trước nhiều thách thức như hiện nay. Nhu cầu gia tăng về tài nguyên cho các hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó có nhu cầu năng lượng và lương thực đã tạo nên áp lực ngày càng lớn đối vơi tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan đến môi trường sinh thái trong lưu vực sông”.
Thủ tướng Việt Nam nhận định, lưu vực sông Mekong đã trở thành một trong năm lưu vực sông lớn trên thế giới có dòng chảy bị suy giảm nhiều nhất. Dòng chảy trung bình năm của sông Mekong tại trạm Chiềng Sen, cửa ngõ của vùng hạ lưu sông Mekong đã giảm 10% trong vòng 30 năm qua. Ở Lào, sông Mekong đoạn chảy qua Thủ đô Viên Chăn 10 năm qua khô hạn đến mức người ta có thể lội qua sông trong mùa khô. Ở Thái Lan, sông Chao Phờ-ray-a vốn hiền hòa đã xảy ra lũ lớn, gây ra thảm họa lũ lụt quốc gia trong nhiều tháng liền trong năm 2011. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, nước mặn đã vào khu vực Tân Châu (Châu Đốc, tỉnh An Giang) và là điều chưa bao giờ xảy ra trước đây. Những tác động này càng trở nên nghiêm trọng hơn, cấp thiết hơn trong bối cảnh các quốc gia ven sông tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu. Theo số liệu tính toán cho các kịch bản về biến đổi khí hậu, khi kịch bản tồi tệ nhất xảy ra thì trong vòng 100 năm tới nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao 1 mét, làm mất 40% diện tích ĐBSCL, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 10% dân số Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, để ứng phó với những thách thức đó, bên cạnh nỗ lực của mỗi quốc gia, chúng ta cần tăng cường hợp tác khu vực, đặc biệt giữa các quốc gia ven sông, cả ở thượng nguồn và hạ nguồn, thông qua những cơ chế đa phương, cơ chế tiểu vùng như Ủy hội sông Mekong quốc tế.
Là một thành viên có trách nhiệm đồng thời là nước ở cuối nguồn sông Mekong, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước ven sông đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của cả khu vực. Nhằm phát huy vai trò của Ủy hội vì lợi ích chung của cả khu vực, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị, các nước cần ưu tiên thúc đẩy thêm 5 điểm chính. Thứ nhất, cần tiếp tục thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả Hiệp định Mekong 1995 cũng như các thủ tục, quy định của Ủy hội sông Mekong quốc tế về sử dụng công bằng, hợp lý tài nguyên nước; Thứ hai, cập nhật và đẩy mạnh thực hiện chiến lược phát triển lưu vực dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước thông qua việc thực hiện các kế hoạch hành động của quốc gia và vùng; Thứ ba, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo của Ủy hội, trong đó tập trung ưu tiên cao nhất cho việc hoàn thành nghiên cứu chung của về quản lý và phát triển bền vững sông Mekong, bao gồm cả nghiên cứu các tác động từ dự án thủy điện dòng chính; Thứ tư, tăng cường hơn nữa vai trò giám sát và điều phối của Ủy hội trong triển khai thực hiện cam kết của các nước thành viên về hợp tác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước chung sông Mekong vì mục tiêu phát triển bền vững của khu vực. Đồng thời, cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện các cơ chế pháp lý khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển bền vững, công bằng và hợp lý tài nguyên nước; Thứ năm, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác giữa Ủy hội và các nước đối tác, khuyến khích sự tham gia và tham vấn giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực vì sự phát triển bền vững của lưu vực.
Trong khuôn khổ Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính thức thông qua tuyên bố TP Hồ Chí Minh gồm 27 điểm thống nhất hành động chung giữa các nước thành viên Ủy hội sông Mekong quốc tế, trong đó nòng cốt là 4 nước hạ lưu sông Mekong là Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Tuyên bố khẳng định tầm quan trọng trong việc sử dụng và quản lý bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của Lưu vực sông Mekong, cũng như khẳng định cam kết chính trị trong việc thực hiện Hiệp định Mekong năm 1995 và củng cố tinh thần hợp tác Mekong.
Tại cuộc họp thượng đỉnh, 4 nước hạ lưu sông Mekong cũng ghi nhận việc phát triển tài nguyên nước lưu vực sông Mekong đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, như trong giao thông thủy, sản xuất năng lượng và lương thực, nhưng cũng gây nên các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội lưu vực và cần được giải quyết một cách triệt để và hiệu quả. “Chúng tôi nhận thấy biến đối khí hậu là vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng tới kinh tế và sinh kế trên toàn lưu vực sông Mekong. Việc giảm nhẹ tác động và thích ứng và biến đổi khí hậu là hết sức quan trọng và cần được tiến hành khẩn trương”, Tuyên bố TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh.
Hành động ưu tiên và các cam kết của Hội nghị cấp cao lần thứ nhất của Ủy hội sông Mekong quốc tế cũng được nhắc lại và khẳng định trong Tuyên bố chung TP Hồ Chí Minh. Trong đó, các cam kết bao gồm việc thông qua và thực hiện Chiến lược Phát triển Lưu vực dựa trên Quản lý Tổng hợp Tài nguyên nước; thực hiện Kế hoạch chiến lược của Ủy hội sông Mekong quốc tế giai đoạn 2011 – 2015. Đồng thời, Tuyên bố TP Hồ Chí Minh cũng xác định các cơ hội và rủi ro đối với an ninh lương thực và sinh kế, bao gồm vấn đề thủy điện, thủy lợi, thủy sản, giao thông thủy, quản lý lũ và hạn, quản lý lưu vực, du lịch và môi trường, trong đó có quản lý hệ sinh thái trong khu vực.
Một nội dung đặc biệt quan trọng được Tuyên bố TP Hồ Chí Minh khẳng định, gồm hơn 10 điểm liên quan đến các thành tựu đạt được kể từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất của Ủy hội sông Mekong quốc tế được tổ chức tại Thái Lan vào năm 2010.
Tuy nhiên, Tuyên bố TP Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nhiều thách thức khu vực có thể ảnh hưởng đến nỗ lực chung của các nước thành viên, như: áp lực ngày càng gia tăng về tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế, đã tạo ra nhu cầu lớn về nguồn nước, năng lượng và lương thực, gây sức ép không nhỏ lên các nguồn tài nguyên của Lưu vực sông Mekong. Đồng thời, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã và đang làm suy yếu mức độ đầu tư và tài trợ cho các chương trình của Ủy hội sông Mekong quốc tế. Từ đó, yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực và năng lượng, tăng trưởng và ổn định kinh tế đang là thách thực lớn đối với khu vực.
Trong nỗ lực giảm thiểu các thách thức, tác động của biến đổi khí hậu, Tuyên bố TP Hồ Chí Minh đã thông qua các lĩnh vực hành động ưu tiên chung giữa 4 nước thành viên. Đó là các mục tiêu về đẩy mạnh tiến độ thực hiện nghiên cứu của Hội đổng Ủy hội sông Mekong quốc tế về phát triển và quản lý bền vững sông Mekong, bao gồm những tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính Mekong; Rà soát, cập nhật và thực hiện Chiến lược phát triển Lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước, chuẩn bị cho kế hoạch chiến lược 2016 – 2020; Phòng tránh, giảm thiểu và giảm nhẹ các rủi ro đối với hệ sinh thái sông, an ninh lương thực, sinh kế và chất lượng nước do gia tăng hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi cũng như thủy điện, giao thông thủy và các hoạt động phát triển khác trong lưu vực; tiếp tục mở rộng hợp tác với các đối tác đối thoại, đối tác phát triển hiện tại và các đối tác mới, cũng như sáng kiến hợp tác khu vực và quốc tế.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.