Làng Vạn Bảo
Xã hội - Ngày đăng : 09:56, 11/04/2006
(HNMĐT)- Làng Vạn Bảo thời Lê là một châu, đến đầu thời Nguyễn là một xã thuộc tổng Minh Cảo, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, từ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đổi thuộc phủ Hoài Đức; năm 1915 làng thuộc tổng Phúc Lâm, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (năm 1942 lại đổi thành Đại lý đặc biệt Hà Nội).
Đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp, làng Vạn Bảo thuộc xã Tứ Tổng, thuộc quận Lãng Bạc, ngoại thành Hà Nội, đến năm 1948, đổi thành xã Liên Châu. Hòa bình lập lại, xã Liên Châu đổi thành xã Tứ Liên (ghép hai tên “Tứ Tổng” và “Liên Châu”) thuộc quận V ngoại thành Hà Nội, năm 1961 lại cắt về huyện Từ Liêm. Từ cuối năm 1996, xã Tứ Liên được chuyển thành phường Tứ Liên thuộc quận Tây Hồ, làng Vạn Bảo nay đổi thành Vạn Ngọc, là một bộ phận của phường này.
Vạn Bảo xưa tuy thuộc huyện Từ Liêm, nhưng nằm trong vùng “Tứ Tổng” - nơi giáp ranh giữa bốn tổng : Nội, Thượng, Trung, Hạ của huyện Vĩnh Thuận cũ. Đây là vùng đất bãi ven sông Hồng, tiếp giáp với Kinh đô Thăng Long nên bảo lưu nhiều dấu ấn lịch sử. Sách Đại Việt sử ký Toàn thư cho biết, tháng Chín năm Mậu Dần (1518), tướng Trần Chân cùng các bộ tướng đánh chiếm Kinh đô nên Mạc Đăng Dung phải rước Vua Lê Chiêu Tông ra châu Vạn Bảo tránh nạn.
Vạn Bảo nằm sát sông hồng, có nhiều đất bãi bồi nên dân làng sống bằng nghề trồng dâu, nuôi tằm, trồng các loại rau bí ngô, củ cải. Nam giới trong làng thạo nghề thợ xẻ, đóng thuyền và làm các đồ mộc, thường đi làm thuê cho các nơi. Thời Pháp thuộc, có nhiều nhà tư sản lập xưởng chế biến gỗ trên đất của làng và các làng bên, thuê thợ làng Vạn Bảo làm. Thợ mộc các nơi cũng đến đây để làm thuê.
Thời Nguyễn, làng Vạn Bảo có ba người, lại là ba cha con đỗ Cử nhân là Nguyễn Huy Kỳ (đỗ khoa Bính Tý đời Tự Đức - 1876), con là Nguyễn Huy Bích (khoa Tân Mão đời Thành Thái - 1891 và Nguyễn Hoành Diện (em Huy Bích, đỗ khoa Bính Ngọ đời Thành Thái - 1906).
Làng Vạn Bảo có ngôi chùa mang nhiều tên khác nhau, tùy thời : đầu tiên là Linh Am, rồi đổi thành Linh Sơn, Vạn Bảo, Vạn Ngọc, Kim Quang... Chùa được dựng từ lâu, thuộc dòng Thiền Trúc Lâm. Năm Bảo Thái thứ sáu (1725), có ông Nguyễn Duy Điền (tức Bảo) - người làng, làm quan Tiến công thứ lang, Tàm Tang sở sứ (phụ trách sở nuôi tằm) cùng vợ là bà Nguyễn Thị Trãi đã cúng 100 quan tiền để mở rộng chùa, tạc thêm tượng Phật, lại cúng 1 mẫu ruộng, nên dân làng tôn ông làm Hậu Phật. Từ đó, chùa đã qua nhiều lần tu bổ. Trong chùa hiện còn đến 58 tấm bia nói về những lần nhiều trong làng và khách thập phương cung tiến của để tu bổ chùa. Bia sớm nhất có niên đại Bảo Thái thứ sáu (1725) nói về việc vợ chồng ông Nguyễn Duy Điền đứng ra tu bổ chùa nêu trên. Ngoài ra còn có quả chuông đúc năm Gia Long thứ 13 (1814) đúc theo quả chuông cũ của chùa đã bị thất lạc.
Chùa Vạn Bảo hiện nằm ven đê sông Hồng, hướng Tây Nam, gồm Tam quan, chùa chính có kết cấu chữ “Đinh”, nhà Tổ, nhà Mẫu, trở thành một danh lam thắng cảnh ở phía Bắc Hồ Tây - như bài Minh trên cây hương đá lập năm Vĩnh Khánh thứ ba (1731) còn lưu trong chùa đã ghi. Chùa là nơi thành lập Chi bộ Đảng có trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng của các làng thuộc các phường : Tứ Liên, Nhật Tân và Quảng An hiện nay. Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi điều trị thương binh chuyển từ nội thành ra.
TS. Bùi Xuân Đính