Làng Đại Lan và những phát hiện mới

Xã hội - Ngày đăng : 08:52, 05/02/2006

Thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì từng nổi danh vì có nhiều người đỗ đạt. Vào đời Hồ, đời Lê làng có 18 vị đỗ tiến sĩ, hương cống, sinh đồ. Đời Lê có Nguyễn Như Đổ đậu Bảng nhãn năm 1442 khi 18 tuổi, làm Thượng thư bộ lại, Tế tửu Quốc Tử giám, ba lần đi sứ phương Bắc; cháu Nguyễn Như Đổ là Nguyễn Như Huân đỗ tiến sĩ năm 1458.

Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, người làng Đại Lan, một trong những vị đỗ đại khoa đời Lê được ghi danh trên bia đá dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Ảnh: Đăng Khoa

Thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì từng nổi danh vì có nhiều người đỗ đạt. Vào đời Hồ, đời Lê làng có 18 vị đỗ tiến sĩ, hương cống, sinh đồ. Đời Lê có Nguyễn Như Đổ đậu Bảng nhãn năm 1442 khi 18 tuổi, làm Thượng thư bộ lại, Tế tửu Quốc Tử giám, ba lần đi sứ phương Bắc; cháu Nguyễn Như Đổ là Nguyễn Như Huân đỗ tiến sĩ năm 1458.

Do nằm ở ven sông Nhĩ Hà nên làng thường bị nạn đất lở. Năm 1723, Đại Lan cùng Trung Lan, Chử Xá di sang bờ Bắc, thuộc huyện Văn Giang xứ Kinh Bắc. Ngày ấy, Đại Quan không chỉ là tên gọi 1 làng mà còn là tên gọi 1 tổng. Năm 1874, Đại Quan di sang bờ Nam và trở về với tên gọi Đại Lan đến năm 1915, làng mới chính thức nhập về huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Vào các năm 1958, 1978 và năm 2000 làng tiếp tục bị thủy tai. Một phần tư nhà dân cùng đình chùa đều trở thành bãi sông. Hiện Đại Lan có 2450 người với hơn 100 mẫu đất canh tác.

Do nạn đất lở nên dấu tích văn hóa vật thể ở Đại Lan dường như không còn gì. Làng chỉ còn 5 ngôi nhà gỗ kẻ chuyền có tuổi 70-80 năm. Bù lại sự mất mát đó, hiện trong trí nhớ của các cụ già còn lưu giữ một kho tàng văn hóa dân gian vô cùng phong phú. Ngoài ra, tại các tư gia và tại Thư viện thông tin KHXH còn lưu giữ các bản ngọc phả, tộc phả, hương ước. Những tư liệu này giúp ích cho việc tìm hiểu truyền thống mọi mặt củamột làng khoa bảng trên đất Thăng Long. Sau đây, chúng tôi xin được giới thiệu các nét chính, các tài liệu mới sưu tầm.

1- Sách “Hà Nội con đường, dòng sông và lịch sử” nói sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội dài 81 km. Từ nội thành về xuôi, sông Hồng lần lượt có tên là Đại Lan (vì qua bãi Đại Lan, nay thuộc xã Duyên Hà). Khúc sông Đại Lan có vụng Tranh nước sâu sóng cả. Bản đồ làng Đại Quan (ông Trần Văn Thụ cung cấp) do Tri phủ Thuận An cho vẽ năm 1861 mô tả chi tiết đất bãi, đất ở, đình chùa, từ chỉ của các làng Đại Quan, Trung Quan (bờ Bắc) làng Yên Mỹ, Văn Uyên ở bờ Nam. Qua đường nét trên bản đồ, thấy khúc sông nở phình như một quả bóng. Vì vậy việc người xưa lấy tên Đại Lan đặt cho khúc sông này là hoàn toàn chính xác.

2- Báo cáo của chức sắc Đại Lan gửi Viện Viễn đông bác cổ năm 1938 gồm 8 trang chữ quốc ngữ và 18 chữ Hán đã xác định được đình Đại Lan thờ 3 vị tướng thời Hùng Vương thứ 17 có công đánh giặc giữ nước yên dân. Làng Đại Lan (Thanh Trì) và làng Võng La (Đông Anh) cùng thờ Tam vị đại vương. Hai làng kết chạ giao hiếu, có tục làm gỏi cá lăng cúng thần và mở hội đánh gậy vào ngày 7 tháng Giêng. Cùng với Ngọc phả ghi sự tích vị thần, báo cáo còn sao 7 đạo sắc phong thần đời Nguyễn. Năm Nhâm Tuất (1862) do đình sở bị hỏa tai nên 3 đạo sắc thời Tây Sơn đã bị cháy.

3- Khi ở bờ Bắc, Đại Lan có tên gọi Đại Quan Châu; lâu nay nhiều người cho rằng, dolàngcó nhiều người đỗ đạt và làm quan to nên gọi như vậy. Nay qua các chữ ở sắc phong và chữ ở bản đồ (1861) viết chữ quan là cửa, vì vậy Đại Quan có nghĩa là cửa lớn. Hiện ở đình Đại Lan có treo bức hoành “Đại Quan tại thượng”. TS Hoàng Văn Lâu theo mẫu tự, nói chữ quan ở đây nghĩa là quan sát nên 4 chữ ở bức hoành có nghĩa: Vị thần thờ đình, ngài ngự ở trên cao nhìn thấu nỗi niềm của chúng dân.

4- Tại Văn Miếu ở Hà Nội có bia dựng năm 1484. Về Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, văn bia ghi: “Nguyễn Như Đổ đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh, người huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín” nên khó xác định tên gọi Đại Lan châu có từ khi nào. Đầu thế kỷ XIX, Phan Huy Chú viết trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”: “Như Bảng nhãn họ Nguyễn ở Lan Châu đỗ khôi nguyên hồi mới khai quốc”. Tên gọi Lan Châu còn thấy trong phả họ Phạm soạn năm 1889. Khi soạn tiếp gia phả, họ này gọi “trùng tu Lan phả” nhắc tới đất bãi gọi là Lan Châu; điện thờ nhà ông Thụ câu đối có chữ Lan đài... qua các dẫn dụ, bước đầu nêu giả thiết vào thời Trần và Lê, Lan Châu chỉ một vùng đất rộng ở bờ Nam sông Hồng, khi dân cư đông đúc mới tách thành Tiểu Lan, Trung Lan, Đại Lan. Phả họ Phạm nói rõ trước đây Trung Lan và Đại Lan vốn là một xã thuộc tổng Vạn Phúc huyện Thanh Trì. Năm 1723, khi sang bờ Bắc, Trung Lan ở phía gần đê không bị lở đất nên định cư lâu dài (nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm). Tương tự Tiểu Lan Châu cuối thời Lê đã ổn định ở bờ Nam và đổi gọi Yên Mỹ. Hiện nay tại làng Trung Quan (xã Văn Đức, huyện Gia Lâm) có thờ Nguyễn Như Đổ và dòng họ Nguyễn tại đây khá đông đúc. Tiểu Lan là quê của TS Phạm Quốc Trinh nhưng hiện nay người Yên Mỹ ít biết về vị TS này; còn ở Đại Lan có dòng họ Phạm Quốc, đời nào cũng có người đỗ đạt.

Trong nhiều thế kỷ, dù luôn phải sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người Đại Lan vẫn bền chí học hành. Trình độ học vấn được thể hiện qua bản phả họ Nguyễn 28 trang chữ Hán và phả họ Ngô 15 trang chữ Hán. Chúng ta học được ở 2 bản phả này cách ghi chép tỉ mỉ, khoa học với lối hành văn mềm mại và súc tích của người xưa. Phả bổ sung nhiều tư liệu cho sử làng và sử nước. Phả họ Phạm nói, họ này về văn đời nào cũng có người đậu hương cống, sinh đồ, về võ có người làm đến Điện tiền chỉ huy sứ. Cách đây 120 năm, họ Phạm đã có quy ước về khuyến học, khuyến tàivà hoạt động của họ gồm 7 điều. Người họ Ngô đời nào cũng có người tài giỏi, hăng hái đứng ra gánh vác việc làng. Cai tổng Ngô Thế Mỹ năm 1861 vẽ bản đồ Đại Quan Châu, năm 1862 dũng cảm chống trộm cướp bị chúng giết hại. “Sau này yênhàn mới làm lễ an tán, quan phủ họ Trần làm câu đối khóc thương, lại phúng 20 quan tiền rồi báo công lên tỉnh”.

Hiện nay ở Đại Lan còn bản văn tế của Hội Tư văn, ghi tên những người đỗ đạt của xã Đại Lan và cả tổng Vạn Phúc. Danh tính của họ được đọc ở buổi tế lễ ở Văn chỉ làng vào mùa xuân và mùa thu. Bổ sung cho các tài liệu vừa nêu, hiện ở Viện Thông tin KHXH còn bản Hương ước làng Đại Lan gồm 69 trang chữ Hán được biên soạn công phu. Nếp sống, phong tục của làng được thể hiện qua các điều trong bản Hương ước này. Đây là một tài liệu quý giá giúp cho việc nghiên cứu một làng cổ, hy vọng những điều thiết thực và phù hợp sẽ bổ sung cho Quy ước làng văn hóa Đại Lan hôm nay.

HNM

ANHTHU