Làng Đông Tác - Trung Tự
Xã hội - Ngày đăng : 10:22, 03/02/2006
(HNMĐT)- Làng Đông Tác vốn là một trong 36 phường của Kinh đô Thăng Long thời Lê. Sang thời Nguyễn, phường được đổi thôn (làng) thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (từ năm 1831 trở đi là tỉnh Hà Nội).
Dân làng Đông Tác - Trung Tự xa xưa sống bằng nghề làm ruộng và trồng rau. Vào thời Lê, một bộ phận dân làng lên khu vực phố Cầu Gỗ và đầu phố Hàng Bạc mở cửa hàng, nhận quần áo để nhuộm hoặc đem cho dân làng Kim Hoa nhuộm. Phần đông các gia đình này về sau ở lại, lập ra các làng Đông Tác Nhiễm Thượng, Đông Tác Nhiễm Trung và Đông Tác Nhiễm Hạ (nhiễm có nghĩa là nhuộm).
Các tư liệu Hán Nôm còn lưu cho biết, vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, một số kẻ quyền thế ở làng Kim Hoa (Kim Liên) ở bên cạnh đã chấp chiếm khá nhiều đất đai của làng Trung Tự, khiến nhiều gia đình trong làng phải bỏ đi nơi khác. Cuộc tranh kiện kéo dài mấy chục năm. Mãi đến năm Quý Sửu (1673), triều đình đã xứ thắng cho làng Trung Tự . Toàn bộ vụ khiếu kiện này được ghi lại trên tấm bia lập ngày 2 tháng Sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức (1733) hiện còn lưu ở đình làng.
Làng Trung Tự có họ Nguyễn gốc từ Thanh Hóa ra là một họ lớn, sinh ra nhiều danh nhân. Người đầu tiên là ông Nguyễn Hy Quang (1634 - 1692) khi còn đang đi học cũng đã bày mưu kế cho dân làng tranh kiện đòi lại đất đai với các chức dịch làng Kim Hoa. Về sau, ông Quang đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương khoa Đinh Dậu (1657), vào thi Hội trúng Tam trường, lại đỗ khoa Sĩ vọng (khoa Canh Tuất - 1670), được bổ chức Giáo thụ phủ Thường Tín. Chúa Trịnh biết tiếng ông, bèn triệu vào Phủ Chúa, cho làm tân khách của Vương thế tử Lương Mục Công, sau lại dạy cả con của Lương Mục Công là Tấn Quốc Công Trịnh Bính. Sau khi mất, ông được Chúa Trịnh truy tặng hàm Thị lang, lại gia phong Thượng thư, tước Hiển Quận Công, phong Phúc thần, cho dân hai phường Đông Tác và Kim Hoa là dân tạo lệ (được miễn phu dịch, để trông nom đền miếu, hàng năm Xuân - Thu hai kỳ tế lễ).
Một người khác của họ Nguyễn thành danh, được ghi trong sử sách là Nguyễn Trù (1668 - ?), tự là Loại Phủ, đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa, đời Vua Lê Hy Tông (năm 1697). làm quan trải các chức : Đốc trấn Cao Bằng, Hữu Thị lang bộ Hình, kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông là bậc “Học hỏi rộng rãi, thường sửa định, chú giải các sách Sách học đề cương và Quần hiền phú lưu hành ở đời”. Sau khi mất, ông được tặng Công bộ Tả Thị lang, tước Xương Phái hầu.
Thời Nguyễn, làng Đông Tác - Trung Tự có ông Nguyễn Văn Lý (1795 - ?), tục gọi là ông Nghè Đông Tác, tự là Tuân phủ, hiệu là Đông Khê, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, đời Vua Minh Mạng (năm 1832), làm quan Án sát tỉnh Phú Yên; bị cách, rồi lại được phục dụng chức Đốc học tỉnh Hưng Yên, Hàn lâm viện Trước tác, là nhà giáo, nhà văn hóa lớn, để lại tác phẩm có Đông Khê thi văn tập.
Thời Nguyễn, làng Trung Tự còn có 3 người đỗ Cử nhân là : Cao Văn Dao (đỗ khoa Kỷ Mão đời Vua Tự Đức - 1879); Nguyễn Hữu Quý (đỗ khoa Bính Tuất đời Đồng Khánh - 1886), Nguyễn Hữu Cầu (đỗ khoa Bính Ngọ đời Thành Thái - 1906). Cao Văn Dao thuộc hàng cháu nội của Cao Bá Quát, đã chạy sang đây sinh sống sau khi Cao Bá Quát nổi dậy chống triều đình (năm 1854 - 1855) và họ Cao bị trả thù.
TS. Bùi Xuân Đính