Y học cổ truyền và "Ôn dịch"
Xã hội - Ngày đăng : 08:16, 09/12/2005
Trong y học cổ truyền, những kinh nghiệm truyền khẩu và tài liệu phòng, chống dịch bệnh của gia cầm có khả năng lây lan sang người rất phong phú. Từ “cúm” mà chúng ta quen dùng ngày nay chính là từ “dây” của cụm từ “gà dây” mà dân gian hay dùng.Còn bệnh cúm ở người đã được y học cổ truyền đúc kết qua nhiều thế kỷ bằng một bệnh danh là “Ôn dịch”.
Ôn dịch có đầy đủ tính chất truyền nhiễm cấp tính của bệnh ôn nhiệt, phát bệnh nhanh chóng, biểu hiện của người bệnh giống nhau, bệnh tình nghiêm trọng và có thể dẫn đến đại dịch. Ôn dịch, Ôn độc, Ôn nhiệt đều nằm trong phạm vi Ôn bệnh. Ôn bệnh học là mối quan tâm lớn củanhiều thầy thuốc Việt Nam,tiêu biểu là Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông.
Ôn dịch thuộc loại có tính truyền nhiễm rất mạnh trong Ôn bệnh,là thể bệnh có đặc trưng lưu hành rộng. Hàng ngàn năm trước, sách y đã nói: “Đầu mùa xuân mà có thời tiết về mùa thu thì dân mắc đại dịch”, ý nói khí hậu tự nhiên có những biểu hiện bất thường nghiêm trọng là nguyên nhân chủ yếu khiến con người phát bệnh đột ngột và bị lây nhiễm.
Kinh nghiệm dân gian có những phương pháp phòng dịch rất đơn giản, dễ áp dụng mà lại hiệu quả:
Để thông khói chống khó thở và ngăn ngừa dịch bệnh phát triển, người ta thường đốt quả bồ kết lấy khói để xông, kết hợp với dược liệu là thảo mộc có tinh dầu, nhiều mùi thơm. Cách này cũng đã được các bác sĩ ở Viện Lâm sàng các bệnh nhiệt đới áp dụng trong những ngày dịch SARS hoành hành ở nước ta năm 2003.
Để phòng bệnh gà dây, người nuôi gia cầm thường dùng ốnglá đu đủ, giã, vắt lấy nước rồi rỏ vào mũi gia cầm vài giọt. Cách này đạt được hiệu quả rất cao.
Theo lương y Nguyễn Thiên Quyến (Hội Đông y Hà Nội), đối với việc phòng, chống dịch, y học cổ truyền đã có những bài bản rất cụ thể:
Bệnh Ôn dịch có hai thể lớn là Thấp nhiệt dịch và Thử táo dịch.
Triệu chứng chủ yếu của Thấp nhiệt dịch là khi mới sốt cao thì sợ lạnh, sau đó hết sợ lạnh, sốt liên tục cả ngày lẫn đêm, buổi chiều sốt cao hơn, nhức đầu, đau người, lưỡi đỏ thẫm, rêu lưỡi trắng rộp như trát phấn, mạch sác. Bài thuốc cổ truyền cho bệnh này là “Đạt nguyên ẩm”, công thức: 1. Binh lang (20g), Hậu phác (16g), Thảo quả nhãn (12g), Tri mẫu (16g), Thược dược (20g), Hoàng cầm (16g), Cam thảo (6g).
Trong trường hợp sốt cao kèm khát nước, ra nhiều mồ hôi, rêu lưỡi vàng, mạch hồng sác thì có bài thuốc: “Bạch hổ gia hoàng cầm”. Công thức: Thi mẫu (24g), Thạch cao (32g), Cam thảo (10g), Ngạnh mễ (32g), Hoàng cẩm (12g).
Còn thể Thử táo dịch là loại bệnh truyền nhiễm do cảm nhiễm độc, triệu chứng cơ bản là sốt cao, nhức đầu, mắt mờ, miệng khô, khát nước, đau khớp, người ê ẩm, nói sảng phát cuồng, chảy máu cam, phát hồng ban, lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi xám hoặc nổi gai, mạch sác hoặc tế sác. Bài thuốc cho bệnh này là Thanh ôn bại độc ẩm,gồm: Thạch cao (18g), Sinh địa hoàng (16g), Sừng tê (2g), Xuyên liên (4g), Chi tử (12g), Cát cánh (10g), Hoàng cầm (10g), Tri mẫu (12 g), Xích thược (8g), Huyền sâm (12g), Liên kiều (6g), Cam thảo (4g), Đan bì (10g), Trúc diệp tươi (12g).
Lương y Nguyễn Thiên Quyến nhấn mạnh: Những biện pháp phòng, chống dịch cúm đầu tiên là vệ sinh môi trường, tránh hướng gió lộng, điều hòa ấm lạnh cho cơ thể, uống thuốc phòng bệnh kịp thời. Y học hiện đại đã có những biện pháp phòng, chống đầy đủ và có những kết quả nhất định. Sự tham gia của y học cổ truyền càng nâng cao hiệu quả phòng chống dịch bệnh, đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng.
HNM