Có một “tiếng Nghệ Tĩnh” giữa lòng Hà Nội

Xã hội - Ngày đăng : 08:03, 21/11/2005

Luận văn 185 trang của  NCS Trịnh Cẩm Lan đã làm cho Hội đồng và tất cả cử tọa tham gia Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ ngôn ngữ học (tại trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG HN, 7-11-2005) phải  thán phục. Tác giả đã chọn cho mình một đề tài độc đáo và cách giải quyết độc đáo.

Luận văn 185 trang củaNCS Trịnh Cẩm Lan đã làm cho Hội đồng và tất cả cử tọa tham gia Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ ngôn ngữ học (tại trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG HN, 7-11-2005) phảithán phục. Tác giả đã chọn cho mình một đề tài độc đáo và cách giải quyết độc đáo.

Cô gái Hà Nội chọn đề tài Nghiên cứu sự biến đổi và bảo lưu ngôn từ của các cộng đồng cư dân từ các phương ngữ khác đến Hà Nội (trên cứ liệu phát âm của cộng đồng Nghệ Tĩnh ở Hà Nội). Như vậy, đề tài thì rộng nhưng phạm vi khảo sát thì khá hẹp (đủ để rút ra các nhận định khái quát).

Làn sóng di dân từ nông thôn về các đô thị (theo lực hút cơ học một chiều) làxu thếphổ quát với mọi đất nước trên thế giới. Hà Nội là một thành phố lớn, là thủ đô,trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học, thương mại... lớn vào hàng bậc nhất nước ta, cưdân ở khắp mọi vùng miềntụvề cũng là lẽ thường. Song, phải nói, so với đông đảo các địa phương khác, người Nghệ Tĩnh giữ một vai trò đặc biệt. Không chỉ chiếm tỉ lệ cao về số lượng, cộng đồng này còn có những nét đặc trưng ngôn ngữ rất riêng (so với tiếng HN): hệ thống thanh điệu ít hơn, có 3 phụ âm quặt lưỡi [r, s, tr], 2 vần ưu và ươu. “Đi mô” rồi cũng nhận ra tiếng Nghệ. Nhưng tiếng Nghệ giữa lòng Thủ đô kia có biến đổi không và biến đổi như thế nào ? Đó là cả một “hệ vấn đề” xét từ góc độ phương ngữ học.

Khảo sát các ngữ liệu ngữ âm là chính, Trịnh Cẩm Lan đã kết hợp một loạt phương pháp nghiên cứu : trên thực địa, phân tích định lượng, miêu tả ngữ âm học và so sánh đối chiếu...Tác giảbiết tận dụng tối đa thành tựu của công nghệ thông tin bằng việc sử dụng phần mềm CoolEdit 2000, Praat 2000, SPSS/PC để xử lí ngữ liệu thô và các phân tích ngữ âm chuyên dụng (đây là ưu thế vượt trội so với nhiều tác giả khác). Nhóm người khảo sát cũng rất đa dạng ở các thế hệ (nhóm tuổi), nghề nghiệp (nhóm xã hội), các vùng so sánh (nhóm địa lí), thời gian cư trú (nhóm khác biệt thời gian)... Các cứ liệuđịnh lượng rất chi tiết đó đã cho phép tác giả rút ra nhiều kết luận rất bất ngờ nhưng lại có lí và có giá trị khoa học cao.

Đó là vai trò, ảnh hưởng của các nhân tố xã hội với việc thay đổi các biến thể phương ngữ. Nghệ An, Hà Tĩnh là hai tỉnh khác nhau, nhưng sự gần gũi vềđịa lí, phong tục tập quán, văn hóa... đã tạo nên một vùng có đặc thù riêng. Người Nghệ Tĩnh vốn nổi tiếng cần cù, thông minh, giàu nghị lực và cũng nổi tiếng với tâm lí... cục bộ địa phương. Họ muốn giữ gìn những nét riêng của “đất lề quê thói”. Quê choa, tiếng Nghệ, xứ miềng/ Đi xa phải giữ nét riêng con à. Nhưng giao thoa ngôn ngữ lại có quy luật biến đổi khách quan chứ không lệ thuộc bởi cái tôi chủ quan của ai cả. Sự đổi thay, thích ứng, hòa nhập là một nét ứng xử hợp lẽ của phương ngữ Nghệ Tĩnh trong bối cảnh tiếng Hà Nội là trung tâm. ở đó, có hội tụ và phân kì, có sự đồng nhất và phân li. Tuy nhiên, vẫn có một sự bảo lưu rất rõ nét trong một loạt các cứ liệu ngữ âm bị chi phối bởi các tiêu chí xã hội khác nhau: người già và người trẻ, nam và nữ, mô hình hôn nhân, trình độ học vấn... Mối quan hệ cho và nhận, được và mất đã làm đa dạng thêm bức tranh tổng thể của cộng đồng ngôn ngữ Nghệ Tĩnh ở Hà Nội và của chính bản thân khối cư dân Hà thành những năm vừa qua...

Có nhiều giai thoại nghe phải cười đến chảy nước mắt được xây dựng từ sự khác biệt ngôn từ giữa người “quê choa” với người thuộc xứ khác. Nhưng đường hằn của ranh giới đó cũng đã mờ đi nhiều trong bối cảnh hòa nhập đa chiều hiện nay. Những xu hướng hội tụ, tích hợp và bảo lưu đó đã được chỉ ra rất rõ ở công trình độc đáo của Trịnh Cẩm Lan. Có thể nói, đóng góp của công trình này đã vượt qua mức giá trị của một luận án thông thường. Quả thật, đã lâu lắm, giới Việt ngữ học mới được chứng kiến một luận án thú vị, đạt điểm số tuyệt đối (7/7 xuất sắc) một cách thuyết phục như vậy.

TS Phạm Văn Tình

ANHTHU