Tôi nhớ có mấy câu thơ "Núi Đôi" trong nhật ký (kỳ 3)

Giới trẻ - Ngày đăng : 07:18, 18/10/2005

Xe dừng trước khu căn hộ cho thuê khá đẹp. Tôi gọi cho ông Nguyễn Trung Hiếu. Không có ai ở nhà. Gọi lần hai, không có ai nhấc máy. Tôi để lại hai lời nhắn, rồi tiến đến bên chiếc cổng sắt kềnh càng có khóa số. Khu nhà vắng lặng. Làm sao vào được đây? Tôi bấm chuông gọi người điều hành khu nhà, nói là bạn từ xa đến thăm Nguyễn Trung Hiếu, nhờ ông chỉ dẫn giùm. Người điều hành từ chối, nói đó là việc của tôi.

Chị Hiền Trâm (bìa phải) ký tặng Nhật ký Đặng Thùy Trâm cho ông Nguyễn Trung Hiếu tại nhà ông Hiếu ở California 
Ảnh: Uyên Ly

Xe dừng trước khu căn hộ cho thuê khá đẹp. Tôi gọi cho ông Nguyễn Trung Hiếu. Không có ai ở nhà. Gọi lần hai, không có ai nhấc máy. Tôi để lại hai lời nhắn, rồi tiến đến bên chiếc cổng sắt kềnh càng có khóa số. Khu nhà vắng lặng.

Làm sao vào được đây? Tôi bấm chuông gọi người điều hành khu nhà, nói là bạn từ xa đến thăm Nguyễn Trung Hiếu, nhờ ông chỉ dẫn giùm. Người điều hành từ chối, nói đó là việc của tôi.

Loay hoay một lát trước những dãy số và tên những vị chủ nhà viết tắt, tôi bấm gọi cái tên “Nguyen T.”. Vô ích. Một cái tên “Nguyen T.” khác, cánh cửa nặng nề không chịu hé. Tôi thử bấm một vài số bất kỳ cầu may.

Bỗng một thanh niên da đen đi tới, anh điềm nhiên nhấn phím, tôi dõi theo, lẩm nhẩm 91... Anh nhoẻn cười, cánh cửa mở rộng: “Cô có muốn vào không?”.

Vị khách không mời

Chân bước lần theo những con số thứ tự xuất hiện theo từng cánh cửa. Tưởng như có cả một dàn trống trong lồng ngực. Tới rồi, tay tôi nhấn chuông. Tiếng trẻ con hỏi vọng ra: “Who’s that?”. Nghe quen lắm. Đã nhiều lần tôi trò chuyện với ông Hiếu trong sự vang vọng của thứ âm thanh trong veo này.

Cửa hé mở, lộ ra hai khuôn mặt châu Á nhỏ xíu nghiêng nghiêng rất giống nhau. Linh cảm cho biết tôi đã tìm đúng nhà. “Bố cháu có nhà không?”. “Bố cháu đi đón mẹ rồi, lát sẽ về”. “Cháu là Andrew phải không?”. “Vâng”. “Còn cháu là Alvin?”. “Vâng”.

Nhà ông Hiếu đây rồi. Tôi thở ra, tạm biệt hai đứa trẻ rồi ra ngoài ngồi chờ bên bồn hoa trong khuôn viên khu nhà, điện thoại thông báo tình hình cho chị Hiền Trâm và chị Phương Trâm, chờ tiếng chân chú Hiếu. Những đứa trẻ da đen, da trắng, da vàng đang chơi đùa rộn rã. Một người đàn ông châu Á nhìn tôi ngắm lũ trẻ, vẻ mặt thân thiện. Một phụ nữ da đen dắt theo đứa trẻ lũn cũn tập đi mỉm cười chào tôi. Cảm giác không an toàn biến mất trong tôi.

18g, rồi 18g30, một người đàn ông mập, chậm rãi ôm túi đồ bước lên cầu thang. Theo sau là một phụ nữ trẻ ôm con nhỏ. Qua những gì ông Hiếu tả về gia đình, tôi biết chắc chắn đó là ông.

Thấy tôi xuất hiện trước khung cửa, ông Hiếu nhận ra tôi lập tức bởi tôi đã gửi ảnh cho ông kèm theo bức thư đầu tiên. Sau lời chào, ông hỏi ngay: “Cô đi taxi tới đây à? Còn ai đi với cô nữa không?”. Tôi nói tôi đi một mình, còn hai chị Hiền Trâm và Phương Trâm đang ở khách sạn mong tin tôi.

Ông Hiếu mời tôi vào nhà. Một căn hộ ấm cúng, ngổn ngang đồ chơi và quần áo trẻ em. Một cô bé lũn cũn tới gần khoanh tay chào. Đó là Alisa, cô con gái 2 tuổi mà ông Hiếu từng kể. Ông nhắc đi nhắc lại: “Cô còn trẻ mà sao tìm tới được đây?”, và dành cho tôi sự đón tiếp nồng nhiệt hơn tôi tưởng.

Mọi việc đã trở nên suôn sẻ. Từ nhà ông Hiếu, tôi điện về mời hai chị Hiền Trâm và Phương Trâm tới. Họ cùng lên taxi trong đêm  tối.

Gặp gỡ

Ông Nguyễn Trung Hiếu:

“Thật không thể tưởng tượng được là cuốn nhật ký còn đến bây giờ. Hồi đầu nghe báo chí, người xung quanh nói về nó, tôi thấy e sợ vì nghĩ có khi mình bị liên lụy bởi đó là tài liệu chiến tranh, theo qui định thì không được giữ lại. Nếu vi phạm có khi đi ở tù. Tôi ngày ấy trẻ lắm, có biết luật lệ gì đâu, thấy hay thì bảo Fred vậy thôi.

Hai mươi năm nay tôi sống không có bạn bè vì người ta nghi tôi làm việc cho tình báo. Điều này thì thanh minh với ai được bởi vì đúng là tôi đã từng làm thông dịch viên cho tình báo Mỹ.

Cuộc sống của tôi bị thu hẹp, không giao du với ai. Bây giờ ai cũng biết tôi làm gì rồi. Tôi chỉ là một người bình thường. Lúc nãy, trước khi mấy cô đến, khi tôi đi đón bà xã gặp mấy người trong hãng. Trước đây họ lạnh nhạt với tôi, nay bỗng dưng trở nên thân mật, tươi cười, hỏi khi nào tôi về VN...

Chuyện trở về VN tôi sẽ tính toán kỹ. Tôi rất muốn đi thăm lại quê hương, thăm bạn bè, thăm những nơi chốn cũ, chắc chắn tôi sẽ tới Hà Nội, và đó sẽ là lần đầu tiên trong đời”.

Ông Hiếu đợi sẵn tại vỉa hè đón khách quí. Hai em gái của chị Đặng Thùy Trâm vui mừng rạng rỡ khi gặp người phiên dịch Nguyễn Trung Hiếu.

Cuốn nhật ký sau hơn 35 năm thất lạc, nay lại được trao tận tay người phiên dịch năm xưa như một món quà tặng, trên có chữ ký trân trọng của gia đình. Ông Hiếu đưa tay đón nhận, từ tốn đặt cuốn sách ngay ngắn trên bàn. Phương Trâm chỉ vào tấm ảnh: “Chị tôi đây này”.

Ông Hiếu nhìn tấm ảnh rất lâu và nói: “Cô Trâm đối với tôi là một thánh nhân”. Ấn tượng về cuốn nhật ký trở lại tươi mới. Ông nói: “Khoảng năm 1970, cuốn nhật ký này đến với tôi khi đã mệt nhoài sau những ngày làm việc thâu đêm suốt sáng. Tất cả những thông dịch viên đều ngủ gà gật. Khi cầm nó trên tay, tôi thấy cuốn sổ nhỏ rất bắt mắt. Tôi mở ra đọc và quên cả buồn ngủ.

Người viết chỉ viết cho riêng mình đọc, nhưng những tư tưởng trong đó rất mạnh mẽ và tình cảm. Tôi yêu văn chương miền Bắc nên tôi nhớ trong cuốn nhật ký có mấy câu trong bài thơ Núi Đôi. Tôi định giữ cuốn nhật ký lại để dịch nhưng trình độ của tôi không đủ, công việc lại nhiều nên tôi bảo Fred giữ lại, đừng quẳng vào lửa. Không ngờ Fred nghe theo tôi và giữ nó lại cho đến hàng chục năm sau”.

Chị Phương Trâm bảo: “Đó là bởi vì anh đã nói một câu rất hay, anh bảo cuốn nhật ký đó đã có lửa rồi. Anh là người có tâm hồn nên cuốn nhật ký mới còn đến bây giờ. Mẹ tôi rất cảm ơn anh về điều đó và khi nào có dịp mời anh đến chơi nhà chúng tôi ở Hà Nội. Mẹ tôi sẽ rất vui khi được gặp anh”.

Một điều ngạc nhiên thú vị là ông Hiếu đã vượt qua nỗi sợ do chứng bệnh dị ảnh để vui vẻ chụp ảnh lưu niệm với chúng tôi. Từ ngày đi lính đến nay, ông không chụp tấm ảnh nào trừ một tấm chụp chung với gia đình ở Mỹ. Những bức ảnh tôi chụp ông là những bức mà người ngoài gia đình ông khó thể có được.

Cuộc trò chuyện kéo dài đến quá nửa đêm. Ông Hiếu lái xe đưa chúng tôi về tận khách sạn cách đó hơn 30 dặm, và bên tách cà phê chúng tôi lại tiếp tục nghe ông nói say sưa... Đã rất lâu rồi ông không có người chia sẻ...

Một ngày sau cuộc gặp gỡ này, tôi lại điện thoại cho ông để hỏi thăm tình hình. Ông nói mọi việc đều “êm”, từ hôm chúng tôi đến, gia đình ông Hiếu không bị ai làm phiền.

Cũng có một quê hương xa ngái trong nỗi nhớ của người lưu lạc. Ở đó còn có một mẹ già và một người em đau ốm. Ở đó cũng còn mãi những ám ảnh của một thời chinh chiến, những xác chết bạn bè...

Kỳ sau: Nguyễn Trung Hiếu - một thân phận chiến tranh

Trong câu chuyện của mình, người thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu đã nhắc tới một bài thơ. Ông bảo ông yêu văn chương miền Bắc nên còn nhớ trong cuốn nhật ký có mấy câu của bài Núi Đôi - bài thơ yêu thích của chị Thùy Trâm và đồng đội chị.

35 năm đã trôi qua, nhiều chuyện của quá khứ người lính cũ đã lãng quên, cuốn nhật ký ghi chép những gì ông cũng không nhớ rõ, nhưng những dòng thơ cháy bỏng tình yêu đôi lứa và da diết tình làng nghĩa xóm ấy thì ông lại nhớ không quên...

Tuổi Trẻ, nhân dịp này, xin đăng lại nguyên văn bài thơ.

Núi Đôi

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang.

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục
Núi Đôi chăng.

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,

Cha mẹ dìu nhau về tận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

VŨ CAO

Theo Tuổi Trẻ

HONGHAI