Ðền Cơ Xá tưởng niệm Lý Thường Kiệt, nhà quân sự kiệt xuất

Xã hội - Ngày đăng : 16:40, 03/10/2005

Ở đầu phố Nguyễn Huy Tự (phường Bạch Ðằng, quận Hai Bà Trưng) có một ngôi nhà mà các ngày sóc vọng và nhất là vào ngày 21 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch, bà con nhiều nơi đến dâng hương tưởng niệm một võ tướng nổi tiếng thời Lý: anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Ðó là đền Cơ Xá, nơi được thành phố quyết định khởi công sửa chữa, tôn tạo trong dịp kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội.

Ở đầu phố Nguyễn Huy Tự (phường Bạch Ðằng, quận Hai Bà Trưng) có một ngôi nhà mà các ngày sóc vọng và nhất là vào ngày 21 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch, bà con nhiều nơi đến dâng hương tưởng niệm một võ tướng nổi tiếng thời Lý: anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Ðó là đền Cơ Xá, nơi được thành phố quyết định khởi công sửa chữa, tôn tạo trong dịp kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội.

Theo các vị cao niên ở đây, ngày xưa ngôi đền được xây dựng ở xóm ngoài bãi sông Hồng. Dòng sông chảy xiết mang theo phù sa, tạo nên bên bồi, bên lở nên dân làng phải chuyển dịch ngôi đền vào xóm trong, nơi toạ lạc hiện giờ song vẫn thuộc địa danh Cơ Xá Nam. Ðền có quy mô khá lớn và bề thế với toà nhà tiền tế 5 gian và hậu cung 3 gian nhưng đã bị giặc Pháp bắn phá cháy trụi trong những ngày cuối tháng 12/1946. Ðến năm 1947 - 1948, dân làng Cơ Xá Nam cùng nhau góp công của dựng lại hậu cung có diện mạo như hôm nay.

Ðền Cơ Xá còn lưu giữ được nhiều di vật quí. Bức đại tự có dòng chữ "Uy đức quang minh", bảy đạo sắc phong của ba vương triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn trong các năm 1758, 1792, 1821, 1844, 1846, 1850 và 1924, ba câu đối cũng bằng chữ Hán ca ngợi thân thế và sự nghiệp của nhân vật được thờ trong ngồi đền linh thiêng này, dịch ra chữ quốc ngữ là:
"Ðánh Tống, bình Chiêm, phò nghiệp Lý
Cứu dân, giúp nước, rạng làng Cơ"

Ngôi đền thờ Lý Thường Kiệt (1019 - 1105), ông tên thật là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, người làng Cơ Xá Nam, huyện Quảng Ðức, kinh thành Thăng Long, được vua đổi sang họ Lý (ban quốc tính). Lý Thường Kiệt làm quan dưới ba triều vua Lý: Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông. Ông lập nhiều chiến công hiển hách được ghi trong sách sử. Năm 1069, quân Chămpa thường quấy phá, cướp bóc ở phía nam nước ta. Vua Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt vào nam diệt giặc. Ông được làm tướng tiên phong, chỉ huy 5 vạn quân và mấy trăm thuyền chiến. Quân ta thắng lớn, bắt được vua Chăm là Chế Củ, từ đó biên giới phía nam trở lại bình an. Do lập công lớn, triều Lý trao cho ông chức Thái uý, tổng chỉ huy quân đội.

Vào cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XI, nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta. Ở biên giới phía Bắc, tại các châu Ung, châu Khâm, châu Liêm (thuộc các tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây ngày nay), nhà Tống lập căn cứ, mộ thêm quân, tích trữ lương thực, tăng vũ khí. Lúc ấy ở nước Ðại Việt, vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi. Lý Thường Kiệt nắm vững tình hình địch, sau nhiều lần tính toán, quyết định đánh đòn phủ đầu vào căn cứ hậu cần của địch. Ông tâu với nhà vua: "Ngồi yên đợi giặc sao bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của chúng". Cuối năm 1075, ông viết bài văn nói rõ lý do đánh Tống (Phạt Tống lộ bố văn) đã giành được sự đồng tình của nhân dân Trung Quốc. Tiếp đó, quân ta vượt qua biên giới, đánh tan ba căn cứ châu Ung, châu Khâm và châu Liêm.

Mùa xuân năm 1077, trận quyết chiến chiến lược trên sông Như Nguyệt càng tỏ rõ tài thao lược của tướng quân Lý Thường Kiệt. Khi đó, vua Tống Thần Tông cử Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu sang xâm chiếm Ðại Việt. Với phòng tuyến sông Như Nguyệt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân ta đã chặn đứng lũ giặc tại phòng tuyến kiên cố này. Quân Tống đại bại, phải rút chạy về nước."

Ở Hà Nội, danh tướng Lý Thường Kiệt còn được nhân dân thờ ở đình Nam Ðồng (quận Ðống Ða), đình Thiên Tiên (phố Hàng Bông) và đình Bắc Biên (quận Long Biên).

Theo KTĐT

TUYETMINH