Năm mèo nói chuyện... hổ: Tại sao lại gọi hổ là ''ông Ba mươi''?

Văn hóa - Ngày đăng : 06:05, 21/01/2023

(HNMCT) - Cái tên gọi "ông Ba mươi" từ xa xưa đã có nhiều cách giải thích. Chung quy lại, đó là những cách giải thích theo truyền miệng, có nghĩa là dân gian “sáng tạo” ra những câu chuyện để giải thích cho một tên gọi, một thành ngữ hoặc tục ngữ.

"Ông Ba mươi", theo cách giải thích phổ biến hiện nay là nương theo truyện cổ tích đã được tác giả Nguyễn Đổng Chi kể lại trong "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" mà ông ghi rõ là “theo Sơn Nam… và theo lời kể của người Hà Tĩnh”. Có thể tóm tắt truyện như sau:

Phạm Nhĩ là người sống ở Thiên cung, có sức khỏe phi thường. Ông có vành tai rách nên gọi tên như vậy. Phạm Nhĩ cậy có sức át cả thiên binh thiên tướng. Qua nhiều lần giao chiến, ông định lật đổ cả Ngọc Hoàng để lên ngôi Thiên Đế. Ngọc Hoàng yếu thế bèn cầu Phật. Đức Phật tự thân đi bắt Phạm Nhĩ nhốt vào túi thần, giao cho Ngọc Hoàng xử lý. Ngọc Hoàng đày Phạm Nhĩ xuống trần gian nhưng cắt đôi cánh đi để khỏi bay về trời làm loạn, đồng thời hóa phép làm cho tai Phạm Nhĩ, vốn rất thính, nghe được ngàn dặm, phải cụp lại khi tỉnh. Nói chung là làm giảm sức mạnh của ông. Nể lời Phật dạy, Ngọc Hoàng giao cho Phạm Nhĩ làm chúa tể sơn lâm, đời đời gọi là Hổ. Còn việc gọi hổ là "ông Ba mươi" là theo lệ, khi có người nào săn được hổ thì được vua thưởng 30 quan tiền vì trừ được tai họa cho dân nhưng đồng thời cũng phạt 30 hèo vì sợ vong hồn Phạm Nhĩ giận mà tác quái.

Ở miền Nam cũng có câu chuyện giải thích, nhưng sự việc vào đời Nguyễn với nhân vật vua Gia Long nhờ hổ mà sống sót, sau này ra lệnh ai bắt được hổ thì thưởng 30 quan, nhưng cũng đánh 30 gậy. Vì thế mà có tên "ông Ba mươi".

Đó là những câu chuyện dân gian được sưu tầm muộn. Còn có những câu chuyện khác sớm hơn, liên quan đến danh xưng "ông Ba mươi" mà từ đó, chúng ta có thể liên hệ với phong tục tập quán, tài liệu dân tộc học để giải thích tên gọi này.

Chúng tôi, bắt đầu từ năm 1978, khi nghiên cứu về tác phẩm "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, đã tiến hành so sánh tác phẩm này với truyền thuyết dựng nước của người Việt. Qua so sánh đó, chúng tôi bước đầu nhận ra sự tương hợp giữa các mô típ khởi nguyên giữa chúng, trong đó có sự tương đồng nhiều mặt giữa truyện "Mộc Tinh" trong "Lĩnh Nam chích quái" với chương "Chặt cây Chu" trong sử thi thần thoại Mường, đặc biệt nhận ra rằng, chi tiết đánh Quỷ Xương Cuồng chính là mô típ săn "moong lồ" (săn hổ lớn) còn được kể ở đây.

Năm 2010, khi đọc bài "Tại sao hổ lại được gọi là ông Ba mươi" của Đặng Tiến in trên trang mạng "Người hiếu cổ" thì chúng tôi về cơ bản là đồng thuận với ông. Tuy nhiên, với sự dè dặt cần có của nhà khoa học, tác giả Đặng Tiến viết: “Đây là giả thuyết, chúng tôi coi như một phát hiện, đưa ra để trao đổi”. Dựa trên việc mô tả hình ảnh Xương Cuồng trong truyện "Mộc tinh", tác giả cho rằng “Xương Cuồng là thần cây chiên đàn”, “Lời mô tả gợi ý: Mộc Tinh có thể là thú dữ, chủ yếu là hổ”. Và, với việc truyện "Mộc Tinh" ghi lại tục tế thần hằng năm, vào ngày ba mươi Tết, phải tế thần Xương Cuồng, tác giả đề xuất: “Thần Xương Cuồng ấy phải chăng là thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hằng năm vào ngày 30 Tết? Rồi phải chăng từ phong tục cổ sơ này, đã có từ thời các vua Hùng, mà con hổ, con cọp được gọi là ông Ba mươi cho đến ngày nay?”.

Khi nghiên cứu, chúng tôi nhận ra rằng, chữ "Xương" trong từ "Xương Cuồng", dù viết dưới dạng chữ Hán (nhân đứng trường) hay (khuyển xương) đều thông nghĩa với nhau và trong kết cấu "Xương Cuồng" thì "Xương" viết với dạng nào cũng được. Chữ này được "Từ điển Hán Việt Đào Duy Anh" (đọc 2 âm "Xương" và "Trành") giải nghĩa: “Ma cọp, ta thường gọi là hùm tinh”. Thiều Chửu (đọc âm "Trành") chú nghĩa: “Ngày xưa, bảo rằng hổ ăn thịt người, hồn không biết đi đâu, lại theo con hổ, để đưa hổ về ăn thịt người khác, vì thế nên những kẻ giúp kẻ ác làm ác đều gọi là Trành”. Như vậy, Xương Cuồng là “ma” (không phải “thần”) hung dữ của hổ, khái, cọp... Các tác giả dịch thuật xưa nay không khảo tên riêng này nên chỉ chú thích theo nghĩa muộn là “hung dữ, càn rỡ” và làm mất đi lớp văn hóa trầm tích chứa trong đó. Còn Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, khi nhắc đến Xương Cuồng thì đặt nó vào mô típ đánh Giao long (thuồng luồng) trong truyện cổ tích.

Nhưng, tại sao lại từ cây thần hóa ra ma cọp? So sánh với sử thi "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, ta có thể lý giải điều này. Sử thi kể về quá trình khai thiên lập địa, sinh ra muôn loài, sinh ra các thành tựu văn hóa vật chất và tinh thần của con người, trong đó có việc chặt cây thần (cây Chu), làm nhà lang, đốt nhà lang, săn moong lồ, săn cá điên, quạ điên... Các chương tiếp nối nhau theo quan hệ nhân quả và rất nhất quán. Trong đó, từ việc chặt cây thần dẫn tới việc cây thiêng biến hóa thành moong lồ (con hổ lớn), chạy vào quê Mường Thanh Hóa, ăn “con gái nhà nàng” ra bến sông bến nước, mãi sau này mới diệt được.

"Lĩnh Nam chích quái" cũng từ việc Mộc Tinh chết, biến thành Xương Cuồng (ma cọp), chạy về hướng tây nam, đến nhà Đinh (đóng đô ở Hoa Lư) mới dùng mẹo mà diệt được.

Với sự tương đồng như trên về nghĩa tên gọi, về quá trình biến hóa, về hướng địa bàn của hành động..., ta có hai giả thuyết: Một, người Mường tiếp thu câu chuyện ngắn gọn (quá ngắn) của "Lĩnh Nam chích quái" rồi sáng tác thành sử thi nhiều chương với hàng nghìn câu, vô vàn chi tiết sống động; Hai, với tinh thần ái quốc, các tác giả "Lĩnh Nam chích quái" đã tập hợp những thần thoại bản địa để chứng minh cội nguồn của quốc gia, của dân tộc, sử dụng từ chương và ký tự Hán, thể hiện ngắn gọn lại theo kiểu tự sự trầm tích, viết nên câu chuyện "Mộc Tinh". Chúng tôi, khi đặt bên cạnh nhiều mô típ tương đồng khác mà cho rằng, giả thuyết hai có tính thuyết phục hơn. Và, "Mộc Tinh" là một câu chuyện bản địa, vốn của cư dân phương Nam là thành phần lập nên quốc gia Đại Việt. Chính vì yếu tố bản địa này mà trong truyện "Mộc Tinh", các tác giả đã để cho Xương Cuồng vật chết Nhâm Ngao, một Thái thú đô hộ.

Cuối đời Lê, có chuyện Ma Trành (Trành cũng có âm là Xương như đã nói) do Phạm Đình Hổ chép lại ("Trành quỷ hiển linh"), cũng nói Trành là tinh của người chết vì hổ, thành hổ về bắt người ăn thịt đúng như chú giải của Thiều Chửu trong từ điển. Hơn nữa, Phạm Đình Hổ còn nhắc lại việc Ma Trành vật chết Nhâm Ngao.

"Lĩnh Nam chích quái" chép rằng, “dân phải lập đền thờ, hằng năm đến ngày 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống đến nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là Xương Cuồng”. Thì rõ ràng đây là tục thờ hổ vào ngày 30 Tết. Và vì thế, hổ, cọp, khái, hùm... được gọi là "ông Ba mươi".

Tuy nhiên, mọi tục lệ, mọi truyền thuyết đều là những tích hợp. Tục thờ hổ, tục thờ cây, thờ thần rừng có thể có từ thời xa xưa, cái thời mà các sử gia trung đại vẫn xếp chung là thời Hùng Vương. Những lễ mở cửa rừng của người Thái, người Mường và cả người Kinh... thường kèm việc săn thú, lấy thành quả tế lễ và thụ hưởng chung, thường diễn ra vào mùa Xuân. Sau khi tiếp biến văn hóa Trung Hoa, với tục “khu na” (xua trừ ma quỷ) vào đêm trừ tịch 30 Tết ("Đốt trúc khu na đắng lỗ tai" - Nguyễn Trãi) thì đêm 30 Tết, thời điểm kết thúc năm cũ, dân đồng rừng, ven núi có thêm tục cúng thần rừng ở miếu sơn lâm, đốt pháo, khua phèng la, chũm chọe, vung đồng đuổi cọp. Cái cũ và cái mới hòa đồng trong thời lịch hội nhập để tạo nên phong tục dân gian. Hổ là chúa sơn lâm nên đó là đối tượng chính của lễ cúng.

Vậy, tên gọi "ông Ba mươi" có chứng tích ghi chép sớm nhất là từ "Lĩnh Nam chích quái", một tác phẩm khởi thảo từ thời Trần, biên soạn lại từ thời Lê và tu bổ san định cho đến thời Nguyễn. Từ một phong tục cổ xưa mà trở thành tên gọi dân gian.

Nguyễn Hùng Vĩ