Giá trị đa tầng của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chí nhà nước mới sau Cách mạng Tháng Tám
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước kiểu mới đầu tiên ở Đông Nam Á. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lập ra nền Dân chủ Cộng hòa Việt Nam là một thắng lợi chưa từng có trong lịch sử dân tộc, giải quyết vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ, khẳng định nhiều giá trị của Nhà nước mới.

1. Về phương diện chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh, mang lại hạnh phúc và xã hội vẻ vang. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời của chế độ Dân chủ Cộng hòa, phá tan chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân gần 100 năm.
Đảng đề ra chủ trương thành lập nhà nước kiểu mới trên các lĩnh vực xã hội, chính trị, kinh tế. Việt Minh đưa ra chương trình toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, ngoại giao, với mục tiêu: “Sau khi đánh đuổi đế quốc phát xít Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 khẳng định: “Sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng không thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc”.
Sự ra đời của nhà nước mới cho thấy sau 15 năm thành lập, Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định giá trị chính trị lớn nhất: Nước Việt Nam trở thành một quốc gia tự do, độc lập, có quyền hưởng tự do và độc lập. Người tuyên bố: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Chính phủ lâm thời tuyên bố thoát ly quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ các hiệp ước và đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Ngay khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân bắt đầu xây dựng đất nước trên nền tảng dân chủ để bảo vệ thành quả cách mạng. Chế độ Dân chủ Cộng hòa bảo đảm độc lập dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, bảo đảm quyền tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách: “Phải có một Hiến pháp dân chủ. Phải tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, tất cả công dân trai gái, mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”. Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 bầu ra Quốc hội đầu tiên, và ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp đầu tiên, khẳng định quyền bầu cử, ứng cử, tham gia công việc Nhà nước và quyền tự do dân chủ. Nhà nước tổ chức tòa án, lực lượng vũ trang nhân dân để trừng trị phản quốc và bảo vệ thành quả cách mạng.
Nhà nước dân chủ nhân dân là nhà nước của dân, do dân, vì dân, với tính chất nhân dân dân chủ chuyên chính, thực hành dân chủ với nhân dân và chuyên chính với đế quốc, phong kiến, phản động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
2. Về phương diện kinh tế, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từng bước phục hồi, xây dựng và phát triển kinh tế: Giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian chia cho dân cày; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải; tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc Pháp giao cho Chính phủ nhân dân quản lý; quốc hữu hóa ngân hàng của phát xít Nhật và lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (năm 1951). Trong thời kỳ kháng chiến, nhà nước tập trung phát triển nông nghiệp, công nghệ, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải để cải tiến kinh tế, tài chính và đời sống nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra bốn chính sách kinh tế mấu chốt: “Công tư đều lợi. Chủ thợ đều lợi. Công nông giúp nhau. Lưu thông trong ngoài”. Người chỉ ra năm loại hình kinh tế: Kinh tế quốc doanh (chủ nghĩa xã hội, của chung nhân dân); Hợp tác xã (nửa chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa xã hội); Kinh tế cá nhân (nông dân, thủ công nghiệp, có thể tiến vào hợp tác xã); Tư bản tư nhân; Tư bản Nhà nước (Nhà nước hùn vốn với tư nhân).
Trong đó, kinh tế quốc doanh là loại hình lãnh đạo và phát triển nhất, định hướng phát triển theo chủ nghĩa xã hội, không theo chủ nghĩa tư bản. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) khẳng định: “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Về phương diện văn hóa, giáo dục, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến văn hóa, giáo dục, xã hội như đặc trưng của chế độ mới. Từ Chánh cương vắn tắt, Người đặt phương diện xã hội lên đầu: Dân chúng tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Trong Chương trình Việt Minh, văn hóa, giáo dục, xã hội được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong sáu nhiệm vụ cấp bách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngoài chống giặc đói, các nhiệm vụ còn lại liên quan đến văn hóa, giáo dục, xã hội. Giáo dục trong chế độ mới nhằm xây dựng nền quốc dân giáo dục, làm cho nòi giống thêm mạnh, cưỡng bức giáo dục từ bậc sơ học, mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”, khác với nền giáo dục nô lệ trước đây. Nền giáo dục mới đào tạo công dân hữu ích, phát triển năng lực, góp phần giữ vững độc lập và kiến thiết đất nước.
Trong giai đoạn 1945-1946 và suốt thời kỳ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt, đồng thời xóa bỏ các khuyết điểm của chế độ cũ như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, bè phái, chia rẽ, kiêu ngạo. Người khẳng định: “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân… Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”.
3. Về phương diện đối ngoại, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiên phong, mẫu mực trong thực hiện chức năng đối ngoại. Đảng đề ra nhiệm vụ liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản thế giới. Chính sách ngoại giao trong Chương trình Việt Minh nhấn mạnh các dân tộc bình đẳng, giữ gìn hòa bình, ký hiệp ước giao hảo với các nước, liên hiệp với nhân dân và dân tộc bị áp bức.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến hội nghị Têhêrăng (Tehran, Iran - là hội nghị của đại diện ba nước Liên Xô, Anh và Mỹ họp từ ngày 28-11 đến 1-12-1943 thông qua nghị quyết bảo đảm nền hòa bình lâu dài trên thế giới) và Cựu Kim Sơn (San Francisco, Mỹ - là hội nghị của 50 nước do Liên Xô, Mỹ, Anh và Trung Quốc (Chính phủ Tưởng Giới Thạch) họp từ ngày 25-4 đến 26-6-1945 để thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và thành lập tổ chức Liên hợp quốc), thể hiện tinh thần hòa bình và hợp tác quốc tế. Sau khi nước Việt Nam mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư, điện đến lãnh đạo các nước lớn (Pháp, Mỹ, Liên Xô, Anh), khẳng định Việt Nam là dân tộc yêu hòa bình, tôn trọng quyền lợi và tự do của các nước. Người hoan nghênh tuyên bố 12 điểm của Tổng thống Mỹ Truman, nhấn mạnh nó mở ra kỷ nguyên mới cho các dân tộc bị áp bức.
Chính sách đối ngoại của Chính phủ lâm thời bao gồm: Làm cho các nước công nhận nền độc lập của Việt Nam; thân thiện với kiều dân ngoại quốc, đặc biệt là Hoa kiều; bảo vệ tính mệnh và tài sản của kiều dân Pháp không gây hại cho độc lập của Việt Nam. Tháng 1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện đến Liên hợp quốc, bày tỏ nguyện vọng được công nhận độc lập và tham gia Hội đồng Liên hợp quốc. Trong công hàm gửi các nước lớn, Người đề cao vai trò của các quốc gia trong xây dựng thế giới hòa bình, công bằng, không chiến tranh, áp bức.
Tóm lại, chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán, phấn đấu vì hòa bình bền vững, xây dựng quan hệ hợp tác hữu nghị vì một trật tự thế giới công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong bối cảnh thế giới phức tạp, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vượt qua khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhờ trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách ngoại giao khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước mới được xây dựng với hệ giá trị chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, đối ngoại vững chắc. Chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt, thật sự của dân và vì dân, giữ vững tự do, độc lập, huy động sức mạnh dân tộc và thời đại, tiến hành kháng chiến kiến quốc thành công. Những giá trị cốt lõi này là cơ sở bền vững cho việc xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.