Y tế

Lần đầu tiên ghép thành công đồng thời tim - phổi cho bệnh nhân suy đa tạng tại Việt Nam

Gia Phong

Một thành công đặc biệt vừa được ghi nhận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức khi các bác sĩ thực hiện thành công ca ghép đồng thời tim - phổi đầu tiên tại Việt Nam cho bệnh nhân mắc hội chứng Eisenmenger, suy đa tạng giai đoạn cuối.

ghep-tang.jpg

Thực hiện thành công ca ghép đồng thời tim - phổi đầu tiên tại Việt Nam. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Ngày 13-8, theo tin từ Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức, ca ghép đặc biệt nói trên vô cùng hiếm gặp, yêu cầu kỹ thuật phẫu thuật và hồi sức hàng đầu, cùng sự phối hợp liên chuyên khoa chặt chẽ, khẳng định bước tiến vượt bậc của y học Việt Nam trên bản đồ thế giới. Người bệnh là chị Trần Như Q. (38 tuổi), có tiền sử thông liên nhĩ – tăng áp động mạch phổi nặng.

Năm 2011, chị từng can thiệp bít dù thông liên nhĩ tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Tuy nhiên, do không theo dõi thường xuyên, bệnh tiến triển nặng, dẫn tới suy thất phải không hồi phục, hở van ba lá nặng.

Khi nhập viện, tình trạng bệnh đã ở mức nguy kịch, khả năng tử vong tính từng ngày. Trong bối cảnh các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả, hội đồng chuyên môn đã thống nhất chỉ định ghép đồng thời tim và phổi – giải pháp điều trị cuối cùng cho các trường hợp mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối.

Ca phẫu thuật diễn ra trong 7 giờ, huy động lực lượng tinh nhuệ từ nhiều chuyên khoa: ngoại tim mạch – lồng ngực, gây mê – hồi sức, hồi sức sau mổ, phục hồi chức năng, dinh dưỡng…

Trong suốt quá trình mổ, ekip sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể để thay thế tạm thời hoạt động của tim và phổi. Đặc biệt, thay vì nối khí quản theo phương pháp kinh điển, các bác sĩ đã nối hai phế quản gốc, giúp tưới máu miệng nối tốt hơn và giảm nguy cơ biến chứng. Do phổi hiến to hơn lồng ngực người nhận, ekip đã phải cắt bớt hai bên để vừa khít, đồng thời tiến hành soi phế quản ống mềm trong mổ nhằm đánh giá chất lượng hai miệng nối.

Sau ghép, bệnh nhân phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch mạnh để chống thải ghép, đồng thời đối mặt với nguy cơ nhiễm khuẩn do phổi hiến mang vi khuẩn Acinetobacter baumannii đa kháng. Các bác sĩ đã linh hoạt điều chỉnh liều thuốc ức chế miễn dịch để hạn chế tác dụng phụ, ngừng các kháng sinh độc thận, tiến hành siêu lọc máu nhằm điều trị suy thận và tăng cường nuôi dưỡng qua cả đường tĩnh mạch lẫn đường tiêu hóa.

1-benh-nhan-hoi-phuc.jpg

Niềm vui của bác sĩ và bệnh nhân sau thành công của ca ghép tim - phổi đặc biệt. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Sau hai tuần, chức năng thận của bệnh nhân đã hồi phục, quá trình tập phục hồi chức năng hô hấp được triển khai tích cực.

Theo các chuyên gia, ghép khối tim - phổi là một trong những kỹ thuật phẫu thuật khó nhất hiện nay. Trên thế giới, mỗi năm chỉ thực hiện khoảng 100 ca, do nguồn tạng hiến rất hiếm, quy trình phẫu thuật phức tạp và nguy cơ biến chứng cao.

Tại Anh, tỷ lệ sống sau 90 ngày đạt khoảng 85%, sau 1 năm đạt 72%; tại Mỹ, một số trung tâm như Stanford Health Care ghi nhận tỷ lệ sống sau 1 năm gần 90%. Việc Việt Nam thực hiện thành công kỹ thuật này đánh dấu bước tiến tiệm cận trình độ của các trung tâm ghép tạng hàng đầu thế giới.

Không chỉ thành công ở lĩnh vực kỹ thuật, Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức còn đạt nhiều kết quả ấn tượng trong công tác vận động hiến tạng. Từ tháng 8-2024 đến tháng 8-2025, bệnh viện đã vận động được hơn 50 trường hợp chấn thương sọ não nặng đồng ý hiến tạng, thực hiện lấy đa tạng từ 34 người hiến chết não – con số cao nhất từ trước đến nay. Tính đến ngày 12-8-2025, bệnh viện đã thực hiện tổng cộng 2.478 ca ghép tạng, trong đó có 109 ca ghép tim, 8 ca ghép phổi, 169 ca ghép gan và 2.192 ca ghép thận (bao gồm cả từ người hiến sống và hiến chết não). Đặc biệt, đã có những trường hợp bệnh nhân được ghép cùng lúc 2 tạng như tim – gan, tim – phổi, gan – thận.

Thành công của ca ghép đồng thời tim - phổi lần này không chỉ mang lại sự sống mới cho người bệnh mà còn mở ra hướng điều trị đầy hy vọng cho những bệnh nhân mắc bệnh tim – phổi giai đoạn cuối tại Việt Nam. Đây cũng là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển vượt bậc của ngành ghép tạng nước nhà, với đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm, làm chủ kỹ thuật khó, góp phần nâng tầm vị thế y học Việt Nam trên trường quốc tế.