Gỡ khó cho xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao
Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển sản phẩm công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, song do nhiều rào cản, thị trường tiêu thụ vẫn hạn chế. Thực tế này đặt ra yêu cầu phải có sự phối hợp giữa các bộ, ngành để cùng gỡ khó, đưa sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam chinh phục thị trường toàn cầu.

Nhiều tiềm năng nhưng khó tìm đầu ra
Những năm qua hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nước ta đã hình thành và phát triển mạnh mẽ với hơn 3.800 startup công nghệ, 74.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin và đội ngũ hơn 1,2 triệu lao động chất lượng cao. Cả nước hiện có trên 140 trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, tạo thành mạng lưới quan trọng thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp công nghệ, đem đến thị trường ngày càng nhiều sản phẩm công nghiệp chất lượng cao gắn với khoa học - công nghệ...
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) Trương Thị Chí Bình cho hay, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có năng lực sản xuất đạt chuẩn quốc tế, mạnh về các lĩnh vực cơ khí, nhựa, điện tử, tự động hóa; cạnh tranh tốt với đơn hàng vừa và nhỏ. Ngành đã làm chủ nhiều linh kiện phức tạp cho ô tô, cơ khí, nhựa, dây điện, bảng mạch in và tua-bin điện gió.
Trong khi đó Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) Nguyễn Thị Thu Giang cho biết, ngành công nghệ thông tin Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ, doanh thu toàn ngành năm 2024 đạt 152 tỷ USD, riêng ngành phần mềm đạt 13 tỷ USD, trong đó xuất khẩu chiếm 7 tỷ USD. Ngành sở hữu lợi thế lớn về nhân lực với khoảng 1,26 triệu kỹ sư công nghệ thông tin, được quốc tế đánh giá cao, đặc biệt đứng tốp 3 thế giới về kỹ năng trí tuệ nhân tạo. Gia công xuất khẩu chủ yếu phục vụ các thị trường phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu và một số nước Đông Nam Á; doanh nghiệp đang mở rộng sang Trung Quốc và Trung Đông.
Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ sản phẩm khoa học công nghệ tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều rào cản, đặc biệt là sự thiếu liên kết giữa viện nghiên cứu, doanh nghiệp và Nhà nước; hạn chế trong việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu cùng sự thiếu hụt chính sách hỗ trợ dài hạn. Ngoài ra, ngành phần mềm Việt Nam còn thiếu hụt nhiều mặt từ sự hiện diện tại thị trường nước ngoài, thông tin thị trường đến kênh kết nối, cách tiếp cận hiệu quả, hạn chế về kinh phí marketing…
Thị trường cũng là rào cản lớn nhất với ngành công nghiệp hỗ trợ do doanh nghiệp còn yếu trong việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp chủ yếu dừng ở việc sản xuất linh kiện rời, khó tiến lên sản xuất cụm linh kiện hoặc sản phẩm thay thế do vấn đề sản lượng và chuỗi cung ứng. Trong khi chuỗi cung ứng trong nước còn yếu, kém cạnh tranh so với Trung Quốc, Ấn Độ, dẫn đến phụ thuộc vào vật liệu nhập khẩu và giá thành cao. Bên cạnh đó, ngành chế tạo dù có hàm lượng công nghệ khá cao và là ngành nền tảng, nhưng chưa thực sự được coi là ngành công nghệ cao ưu tiên, dẫn đến thiếu các hỗ trợ thực chất.
Cách nào đưa sản phẩm công nghệ cao ra thế giới?
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Để gỡ khó cho sản phẩm đổi mới sáng tạo, công nghệ cao xuất khẩu, cần tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp và đặc biệt là phát huy vai trò cầu nối của hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
Theo Tham tán thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ Đỗ Ngọc Hưng, hợp tác khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là ưu tiên của hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử, linh kiện. Sản phẩm điện - điện tử, linh kiện bán dẫn, thiết bị công nghiệp và phần mềm Việt Nam ngày càng được doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm. Nhiều tập đoàn của nền kinh tế số 1 thế giới đã hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, như FPT Software cung cấp dịch vụ cho nhiều đối tác. Việt Nam cũng là đối tác tiềm năng trong chuỗi cung ứng linh kiện cơ khí chính xác, khuôn mẫu, thiết bị phụ trợ cho ô tô điện, quốc phòng, y tế, hàng không. Đáng chú ý, Việt Nam có khả năng hợp tác với Tesla về cung ứng linh kiện, pin và giải pháp giao thông xanh.
Trong bối cảnh tiềm năng hợp tác quốc tế về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo còn lớn, ông Đỗ Ngọc Hưng kiến nghị, Chính phủ cần tiếp tục hỗ trợ để các doanh nghiệp, hiệp hội lớn như FPT, Viettel, VASI… mở rộng kết nối, hiện diện tại thị trường Hoa Kỳ thông qua chi nhánh, trung tâm nghiên cứu và đối tác phân phối.
Bà Nguyễn Thị Thu Giang, đại diện VINASA đề nghị, các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cung cấp thông tin pháp lý, thủ tục thành lập doanh nghiệp, hỗ trợ kết nối với cộng đồng, hiệp hội doanh nghiệp sở tại để xây dựng quan hệ. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đặt địa chỉ, biển hiệu tại thương vụ hoặc tìm văn phòng chia sẻ; kết nối đối tác. Ngoài ra, cần cung cấp thông tin sự kiện, chương trình công nghệ phù hợp tại nước sở tại để doanh nghiệp Việt Nam tham gia. VINASA mong các thương vụ giới thiệu những sự kiện lớn của VINASA và mời chào đối tác quốc tế sang Việt Nam tham gia.
Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) Vũ Bá Phú cho biết: “Trong thời gian tới, Cục sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các thương vụ, các đơn vị trong nước và các hiệp hội ngành hàng để triển khai hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại cho sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam. Mục tiêu là xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn liền với thị trường, giúp sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam không chỉ hiện diện, mà còn có sức cạnh tranh mạnh mẽ tại thị trường quốc tế”.