Văn nghệ

“Tấm bản đồ” văn học, nghệ thuật 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

An Nhi 27/06/2025 - 13:13

Hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 - 30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa nghệ thuật tổ chức ngày 27-6, tại Hà Nội, đã đánh giá những thành tựu nổi bật của văn học, nghệ thuật (VHNT) Việt Nam nửa thế kỷ qua, đồng thời đề ra giải pháp góp phần vào sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.

Khuyến khích tìm tòi, tôn trọng tự do sáng tạo

quang-canh-hoi-thao.jpg
Quang cảnh hội thảo. Ảnh: BTC

Đề dẫn hội thảo, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa nghệ thuật Hoàng Hà nhấn mạnh, “tấm bản đồ” VHNT kể từ đất nước liền một dải vẫn tiếp tục mạch nguồn truyền thống cách mạng, bám sát thực tiễn và hơi thở cuộc sống, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ, góp phần bồi đắp tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và khí phách con người Việt Nam.

Theo nhà báo Hoàng Hà, giai 1975-1985, VHNT đi sâu vào phản ánh thực tiễn cuộc sống hòa bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, cũng đã xuất hiện các tác phẩm phản ánh sắc thái cá nhân, những trăn trở về bất cập, trì trệ của cơ chế quan liêu bao cấp, lóe sáng những đòi hỏi đổi thay của “đêm trước đổi mới”. Về tổng thể, giai đoạn này, VHNT mang đậm khuynh hướng chính trị, tuyên truyền với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để văn nghệ sĩ cống hiến, đa dạng phong cách biểu đạt. VHNT phản ánh phong phú muôn mặt cuộc sống, kể cả những vấn đề hậu chiến cũng được phản ánh với những cái nhìn mới, đi sâu vào thân phận, bi kịch cá nhân, qua đó đề cao những giá trị cốt lõi: Nhân bản, yêu nước, khoan dung, vị tha...

hoang-ha.jpg
Nhà báo Hoàng Hà, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa nghệ thuật phát biểu. Ảnh: BTC

Cùng với mở cửa và hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa được tăng cường, nhiều trường phái VHNT được tiếp thu, một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến khuynh hướng sáng tác hậu hiện đại trong văn học, vượt qua những khuôn khổ sáng tác trước đó.

Nhiều tác phẩm văn học đã được dịch ra nước ngoài; nhiều chương trình nghệ thuật đã được giới thiệu đến bạn bè quốc tế thông qua các ngày văn hóa, tuần văn hóa; một số tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng quốc tế... qua đó, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.

Giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều loại hình nghệ thuật đương đại mới xuất hiện như: Nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật đa phương tiện... góp phần là phong phú đời sống văn hóa tinh thần của công chúng, nhất là giới trẻ. Các lễ hội văn hóa (âm nhạc, điện ảnh, thơ...) cũng là điều kiện tốt, kích thích sự sáng tạo của văn nghệ sĩ.

Đặc biệt, nhờ vào thành tựu khoa học công nghệ, nhiều tác phẩm VHNT được lan tỏa rộng rãi trên môi trường mạng, mang đến những tâm thế mới cho người sáng tác và công chúng, đó là sự chủ động, tương tác hai chiều; qua đó, giúp người sáng tác nắm bắt thị hiếu và nhu cầu hưởng thụ của công chúng để có thể sáng tạo những tác phẩm mới hấp dẫn công chúng. Sự phát triển của thị trường nghệ thuật những năm gần đây đã đóng góp quan trọng vào phát triển công nghiệp văn hóa.

“Có thể nói, chưa bao giờ mà văn nghệ sĩ có nhiều điều kiện thuận lợi để công bố, phổ biến các sáng tạo như hiện nay. Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho văn hóa nói chung và VHNT nói riêng. Điều này được thể hiện qua các chủ trương, chính sách hỗ trợ, khuyến khích sự tìm tòi, tôn trọng tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ”, nhà báo Hoàng Hà nhận định.

Tuy vậy, nhà báo Hoàng Hà cũng chỉ ra rằng, VHNT thời gian qua vẫn còn những hạn chế, đó là sự thiếu vắng những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh đúng tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có sức lay động mạnh mẽ công chúng. Còn có những tác phẩm nặng về giải trí, dễ dãi chạy theo thị hiếu tầm thường; một số tác phẩm phản ánh sự bế tắc, u tối, xa rời thực tiễn cuộc sống. Nghệ thuật truyền thống gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động. Công tác lý luận, phê bình cũng đã có những thành tựu nhất định nhưng chưa tương xứng với kỳ vọng. Chính sách cho VHNT vẫn còn những vướng mắc, bất cập...

Đây cũng là nội dung mà các chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý, văn nghệ sĩ đến từ đến từ các viện nghiên cứu; các trường đào tạo văn hóa, nghệ thuật; các nhà hát, đơn vị nghệ thuật; hội VHNT chuyên ngành ở Trung ương và địa phương; cơ quan truyền thông phân tích chi tiết trong ở từng lĩnh vực văn học, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, múa…

Tận dụng công nghệ để phát triển VHNT

33 tham luận và các ý kiến đóng góp trực tiếp tại hội thảo đã nhìn lại sự vận động, phát triển của VHNT 50 năm qua, từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu để xây dựng và phát triển VHNT Việt Nam thực sự là một thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của VHNT nước nhà trong kỷ nguyên mới.

bui-viet-thang.jpg
Nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng tham luận. Ảnh: BTC

Nhà văn, nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho rằng, cần thiết củng cố và lan tỏa quan niệm “Đến hiện đại từ truyền thống” như là con đường chính đạo của hoạt động văn học, trong đó có cả nghiên cứu và sáng tác.

Về lý luận, phê bình văn học, đề cập đến đề thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2025 môn ngữ văn, nhà nghiên cứu Trần Hinh cho rằng, đây là ví dụ sinh động cho thấy sự xích lại gần hơn giữa việc giảng dạy và học tập trong nhà trường với những hoạt động lý luận, phê bình bên ngoài xã hội. Nhà nghiên cứu còn khẳng định, công tác lý luận, phê bình văn học cũng cần tận dụng những tiến bộ trong công nghệ số, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để tránh việc trùng lặp trong nghiên cứu, phê bình và dịch thuật; đồng thời, cần tăng cường những bài viết quốc tế giới thiệu nền lý luận, phê bình trong nước.

Trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống, NSƯT Lộc Huyền (Nhà hát Tuồng Việt Nam) chia sẻ nỗ lực “hồi sinh” và những tín hiệu tích cực của nghệ thuật tuồng thời gian gần đây. Sự thành công của những chương trình biểu diễn và sự kiện độc đáo do Nhà hát Tuồng Việt Nam phối hợp với các đơn vị, cá nhân tổ chức, thu hút đông đảo khán giả trẻ như “Dấu thiêng Hà Nội”, “Hồn tuồng”, “Tuồng và Gen Z – Khi hồn Việt lên tiếng”, “Lời tuồng - Tiếng trẻ”, “Chạm tuồng”… cũng là hướng gợi mở để nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương… phát triển trong thời gian tới.

ndnd-tong-toan-thang.jpg
NSND Tống Toàn Thắng, Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam tham luận. Ảnh: BTC

Với môn nghệ thuật mang tính hội nhập quốc tế cao là xiếc, NSND Tống Toàn Thắng, Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam nhấn mạnh, muốn nghệ thuật “sống”, thu hút được khán giả phải thay đổi tư duy và cách tân nghệ thuật. Chia sẻ kinh nghiệm từ các chương trình nghệ thuật xiếc chính luận bán được hàng chục nghìn vé mỗi dịp ra mắt, NSND Tống Toàn Thắng cho biết, Liên đoàn Xiếc Việt Nam tập trung nâng cao chuyên môn và phát triển nguồn lực nghệ sĩ trẻ, đồng thời sáng tạo các sản phẩm nghệ thuật mới, ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp tinh hoa truyền thống.

Về đào tạo nhân lực, NSND Trần Ly Ly, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Múa Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, đổi mới giáo dục và đào tạo ngành múa nói riêng cùng các ngành nghệ thuật khác là yêu cầu tất yếu để thích nghi và phát triển. Việc đổi mới, theo NSND Trần Ly Ly cần tập trung vào việc xây dựng đội ngũ giảng viên và nghệ sĩ có tư duy toàn cầu; giáo dục đào tạo nghệ thuật phát triển theo hướng mở, linh hoạt và liên ngành; tăng cường ứng dụng công nghệ số, AI trong hoạt động giảng dạy, biểu diễn; liên kết đào tạo trong nước và quốc tế…