Ngân hàng được chia cổ tức bằng cổ phiếu nếu nợ xấu dưới 3%
Theo quy định mới nhất, các ngân hàng có vốn Nhà nước chỉ được chia cổ tức bằng cổ phiếu khi đáp ứng điều kiện: Được Ngân hàng Nhà nước xếp loại từ mức B trở lên trong 3 năm liên tiếp trước thời điểm chia cổ tức, duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.
Đó là một trong những quy định mới về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và tổ chức tín dụng có vốn nhà nước. Quy định này có hiệu lực từ ngày 1-8.

Hiện có ba tổ chức tín dụng mà Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ, bao gồm: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) với tỷ lệ sở hữu 74,8%; Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) tỷ lệ 64,46%; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tỷ lệ 81%.
Các ngân hàng này chỉ được phép chia cổ tức bằng cổ phiếu khi đáp ứng đồng thời hai điều kiện, đó là được Ngân hàng Nhà nước xếp loại từ mức B trở lên trong 3 năm liên tiếp trước thời điểm chia cổ tức và duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.
Ngoài ra, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu áp dụng đối với tổ chức tín dụng đang hoạt động có hiệu quả được đánh giá dựa trên tiêu chí đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cùng với đó, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu còn phải được Ngân hàng Nhà nước lấy ý kiến thống nhất với Bộ Tài chính trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và chấp thuận chủ trương.
Cổ tức có thể được chia bằng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu. Trường hợp chia cổ tức bằng tiền mặt, phần lợi nhuận tương ứng với phần vốn nhà nước góp trong tổ chức tín dụng phải được nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Về phân phối lợi nhuận đối với tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ, quy định nêu rõ phần lợi nhuận còn lại của tổ chức tín dụng sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, sẽ được phân phối theo thứ tự.
Trước tiên là chia lãi cho các bên góp vốn liên kết (nếu có), tiếp theo là bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được khấu trừ. Sau đó, tổ chức tín dụng phải trích 10% lợi nhuận sau thuế vào quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, với giới hạn tối đa không vượt quá vốn điều lệ.
Phần lợi nhuận còn lại được tiếp tục phân phối vào các quỹ: Quỹ dự phòng tài chính (tối đa 10%, không vượt quá 25% vốn điều lệ); Quỹ đầu tư phát triển (tối đa 25%, không vượt vốn điều lệ); Quỹ khen thưởng và phúc lợi cho người lao động, quỹ thưởng cho người quản lý theo quy định hiện hành. Sau khi hoàn tất các khoản trích lập này, tổ chức tín dụng mới được xem xét chia cổ tức.
Việc đánh giá và xếp loại tổ chức tín dụng được thực hiện dựa trên 5 tiêu chí: Doanh thu; lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế; tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn; tình hình chấp hành pháp luật về thuế và các khoản thu nộp ngân sách khác, quy định về chế độ báo cáo tài chính và báo cáo để thực hiện giám sát tài chính; việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích (nếu có).
Với tiêu chí nợ xấu, tổ chức tín dụng được xếp loại A nếu có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn dưới 2% trên tổng dư nợ. Nếu tỷ lệ nợ xấu vượt 3,5% hoặc tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn vượt 2,5%, hoặc nếu hai tỷ lệ này vượt quá 110% so với kế hoạch thì tổ chức bị xếp loại C. Các trường hợp còn lại được xếp loại B.