Khoa học - Công nghệ

Làm sao "đánh thức" tài sản trí tuệ ?

Thu Hằng 17/06/2025 - 06:16

Mỗi năm, hàng nghìn công trình khoa học, sáng chế, giải pháp hữu ích ra đời từ các trường đại học nhưng phần lớn trong số đó vẫn nằm lại trên giấy.

Để các kết quả nghiên cứu thật sự trở thành sản phẩm hữu ích trong đời sống, cần một hệ sinh thái thương mại hóa hiệu quả, trong đó trường đại học, nhà khoa học và doanh nghiệp phải cùng thay đổi cách tiếp cận...

nghien-cuu1.jpg
Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm Trung tâm Nano và năng lượng, Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Thách thức từ chính nội tại

Tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Trưởng ban Khoa học và đổi mới sáng tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) Trần Thị Thanh Tú cho biết, năm 2024, đơn vị thu về hơn 130 tỷ đồng từ hoạt động tư vấn, dịch vụ, chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ. Hơn 200 sản phẩm được đề xuất chuyển giao, 50 dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) hợp tác với doanh nghiệp lớn, 153 tỷ đồng đầu tư từ nguồn ngoài ngân sách…

Theo Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Phạm Bảo Sơn, thay vì đi từ ý tưởng trong phòng thí nghiệm, nhà trường chuyển sang tiếp cận từ nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, rồi quay lại phát triển nghiên cứu. Đây là lối đi ngược dòng, nhưng hiệu quả.

Ngược lại, Đại học Bách khoa Hà Nội, mỗi năm có hàng trăm công bố khoa học được ghi nhận; số lượng sáng chế và giải pháp hữu ích năm 2024 được cấp là 20, tăng gấp 2,2 lần so với năm 2020. Và mặc dù có tiềm lực mạnh về đội ngũ, hạ tầng nghiên cứu, hệ sinh thái khởi nghiệp đã được định hình với Quỹ Đầu tư khởi nghiệp sáng tạo (BK Fund), Văn phòng đổi mới sáng tạo Bách khoa (BK SmartTech), nhiều chương trình tăng tốc khởi nghiệp… song phần lớn sản phẩm vẫn chưa vượt qua được ranh giới giữa phòng thí nghiệm và thị trường. Hoạt động chuyển giao còn nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống, còn “mạnh ai nấy làm”, chưa mang lại lợi ích rõ ràng cho nhà trường cũng như cho người nghiên cứu.

Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Đại học, hoạt động thương mại hóa vẫn còn hạn chế, chủ yếu dừng lại ở mức độ cá nhân, chưa tạo thành dòng chảy mạnh mẽ trong hệ sinh thái nhà trường. Nguyên nhân phần nhiều đến từ chính nội tại, từ cơ chế, cách tổ chức, đến môi trường hỗ trợ chưa đủ linh hoạt.

Một điểm nghẽn then chốt là vấn đề sở hữu trí tuệ. Hiện nay, phần lớn các trường đại học, đặc biệt với các nghiên cứu sử dụng toàn bộ ngân sách nhà nước, đều giữ quyền sở hữu tuyệt đối. Việc phân chia lợi ích giữa trường và nhà nghiên cứu phụ thuộc vào đàm phán, mà phần thắng thường nghiêng về bên quản lý. Trên thực tế, một số trường mới chỉ phân bổ 10-30% quyền sở hữu bằng sáng chế cho nhà phát minh, trong khi giữ lại tới 70-90%. Điều này làm giảm động lực của các nhà khoa học trong việc đưa công trình ra thị trường.

Để tài sản trí tuệ “thức dậy”

nghien-cuu2.jpg
Sinh viên thực hành thí nghiệm tại Đại học Bách khoa Hà Nội.

Kết quả nghiên cứu chỉ có giá trị khi được ứng dụng. Nhưng để đi từ phòng thí nghiệm ra thị trường, tài sản trí tuệ cần một hệ sinh thái đồng bộ: Từ cơ chế sở hữu rõ ràng, quy trình hỗ trợ linh hoạt đến đội ngũ trung gian đủ năng lực.

Để kích hoạt tài sản trí tuệ trở thành sản phẩm hữu ích trong đời sống, Đại học Quốc gia Hà Nội đã thành lập Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo (VNU-TIP), một mô hình tích hợp giữa nghiên cứu, ươm tạo, kết nối doanh nghiệp và quốc tế hóa. Tại đây, các nhóm nghiên cứu mạnh, các viện công nghệ mới được “gắn chíp” vào nhu cầu thực tế: Bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, sinh học, y tế, nông nghiệp công nghệ cao… Năm 2025, đơn vị này đặt mục tiêu trở thành trung tâm ươm tạo công nghệ chiến lược và dẫn dắt hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong trường đại học.

Còn tại Đại học Bách khoa Hà Nội, định hướng “Make in Bách khoa” đang được cụ thể hóa qua việc hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, xây dựng các chương trình nghiên cứu tích hợp liên ngành và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức, thúc đẩy kết nối với doanh nghiệp theo mô hình Công viên khoa học đổi mới sáng tạo Bách khoa (BKIP).

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để những định hướng trên đi vào cuộc sống, cần tháo gỡ các rào cản kỹ thuật và hành chính. Đó là cải tiến quy trình giải ngân, đơn giản hóa thủ tục mua sắm thiết bị, tăng cường hỗ trợ pháp lý và kỹ thuật cho nhóm nghiên cứu. Đặc biệt, phải thay đổi cách đánh giá nhà khoa học: Không chỉ dựa vào số bài báo, mà phải đo bằng giá trị ứng dụng thực tế.

Một giải pháp thiết thực là liên kết các trường xây dựng mạng lưới văn phòng chuyển giao công nghệ chung, chia sẻ hợp đồng mẫu, hỗ trợ pháp lý, đào tạo nhân sự, cùng khai thác tài sản trí tuệ liên trường. Điều này sẽ tiết kiệm chi phí, tạo quy mô đủ lớn và phát huy sức mạnh hợp tác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Về phía Nhà nước, cần hoàn thiện khung pháp lý khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D. Các chính sách ưu đãi thuế, bảo hộ lợi ích doanh nghiệp trong các hợp đồng chuyển giao, đồng thời tăng đầu tư công cho các chương trình nghiên cứu ứng dụng, sẽ là chất xúc tác thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ trong môi trường đại học.

Thương mại hóa tài sản trí tuệ không chỉ là “mua - bán” công nghệ, mà là hành trình kiến tạo giá trị từ tri thức. Hành trình ấy đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ từ chính sách, nhận thức, đến năng lực tổ chức trong mỗi trường đại học. Khi tài sản trí tuệ không còn “ngủ yên”, tri thức Việt Nam sẽ có cơ hội cất cánh thành sức mạnh cạnh tranh quốc gia.