Đầu tư cho khoa học, công nghệ: Cần cách tiếp cận toàn diện
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đang giữ vai trò trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đã có nhiều chủ trương, nghị quyết lớn, việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho lĩnh vực này vẫn tồn tại nhiều bất cập. Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển, cần cách tiếp cận toàn diện, từ mức đầu tư đến cách chi tiêu hiệu quả và phù hợp với thực tiễn.

Phân bổ chưa hợp lý, hấp thụ chưa hiệu quả
Trong suốt 40 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn xác định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Thế nhưng, lĩnh vực này vẫn chưa được đầu tư đúng tầm. Tỷ lệ đầu tư thấp, cơ cấu phân bổ thiếu hợp lý, khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế là những tồn tại kéo dài.
Theo Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước Hoàng Văn Lương, trong giai đoạn 2020-2022, chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ trung bình mỗi năm chỉ ở mức 17.494 tỷ đồng, tương đương 1,01% tổng chi ngân sách, đạt 0,2% Tổng sản phẩm nội địa (GDP). Trong khi đó, Nghị quyết số 20-NQ/TƯ ngày 1-11-2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Luật Khoa học và Công nghệ yêu cầu tối thiểu 2% GDP.
Kiểm toán Nhà nước cũng nêu rõ một thực tại là mức đầu tư cho khoa học và công nghệ của Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới. Theo số liệu của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) trung bình toàn cầu là 1,93% GDP; các nước Đông Nam Á là 1,07%, trong khi Hàn Quốc đầu tư 4,92%, Nhật Bản 3,2%, Trung Quốc 2,4% và Hoa Kỳ 3,54%. Ngay cả các nước có GDP tương đương Việt Nam như Singapore, Thái Lan, Malaysia cũng đầu tư cao gấp 5,1 lần; 3,7 lần và 2,3 lần nước ta.
Cũng theo ông Hoàng Văn Lương, tuy mức đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp so với yêu cầu, chưa đạt tỷ lệ tối thiểu theo quy định, nhưng thực tế lại cho thấy, khả năng hấp thụ vốn đầu tư của ngành khoa học và công nghệ chưa tương xứng. Tình trạng hủy dự toán, hoàn trả ngân sách, chuyển nguồn sang năm sau xảy ra phổ biến.
Nguyên nhân phần lớn xuất phát từ cơ chế chính sách rườm rà, thiếu linh hoạt. Những thủ tục tài chính nhiêu khê, sự chậm trễ trong ban hành cơ chế đấu giá tài sản trí tuệ làm chậm quá trình ứng dụng kết quả nghiên cứu.
Giáo sư Lê Văn Nghị, Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về Động lực học sông biển, chia sẻ một ví dụ điển hình: Để mua chiếc máy tính giá 72 triệu đồng, đơn vị phải chia thành hai hóa đơn, bởi theo quy định, mua thiết bị trên 50 triệu đồng phải đấu thầu. Đây là một quy trình phức tạp, mất thời gian, không phù hợp với đặc thù nghiên cứu.
Xây dựng chiến lược đầu tư thông minh và linh hoạt
Năm 2025, lần đầu tiên Chính phủ đặt mục tiêu chi ít nhất 3% ngân sách cho khoa học và công nghệ - một bước đi tích cực nhằm hiện thực hóa yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TƯ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, vấn đề cốt lõi không nằm ở việc “chi bao nhiêu”, mà là “chi thế nào cho hiệu quả”.
Giáo sư TS Hồ Tú Bảo (Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán) nhận định, các quốc gia phát triển luôn xây dựng mục tiêu và chiến lược khoa học rõ ràng, từ đó mới xác định được cấu trúc đầu tư phù hợp. “Việt Nam cần học tinh thần đó nhưng không sao chép mô hình. Tỷ lệ đầu tư cần xuất phát từ mục tiêu chiến lược và điều kiện thực tiễn của chính mình”, ông nhấn mạnh.
PGS.TS Vũ Văn Tích, Giám đốc Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho rằng, tăng đầu tư cần gắn với năng lực thực tế. Nếu không tính đến trình độ đội ngũ, sức hấp thụ của nền kinh tế và hệ thống chính sách liên quan, việc rót vốn có thể phản tác dụng, gây lãng phí, khiến xã hội “quay lưng” lại với khoa học.
Để nguồn lực thực sự trở thành động lực, cần một kế hoạch phân bổ ngân sách dựa trên cơ sở chiến lược. Những ưu tiên cần được xác định rõ, như: Nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản, đầu tư có trọng tâm vào các lĩnh vực mũi nhọn, phát triển cơ sở hạ tầng R&D hiện đại… Và đặc biệt là cần đổi mới cơ chế tài chính. Một đề xuất đáng chú ý là chuyển đổi cách phân bổ ngân sách theo hướng “giao quyền - kiểm soát kết quả” thay vì “giao tiền - kiểm soát quy trình”. Mô hình này sẽ giúp tổ chức nghiên cứu linh hoạt hơn trong sử dụng kinh phí, đồng thời tăng cường trách nhiệm trong việc tạo ra sản phẩm ứng dụng thiết thực.