Đối ngoại Việt Nam:50 năm hành trình đưa đất nước trở thành bạn bè, đối tác uy tín trên toàn cầu
Ngày này, cách đây 50 năm, đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã kiên trì, linh hoạt, sáng tạo trong chính sách đối ngoại, từ chỗ gần như bị cô lập trên trường quốc tế trở thành một quốc gia có quan hệ tốt đẹp với hầu hết các nước trên thế giới.
Giải thể bao vây, cấm vận
Sau năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất nhưng phải đối mặt với một loạt khó khăn về kinh tế, xã hội, và quan hệ quốc tế. Chiến tranh kéo dài để lại hậu quả nặng nề, trong khi các nước phương Tây áp đặt cấm vận kinh tế. Nguồn viện trợ, đầu tư nước ngoài giảm, không tiếp cận được các tổ chức tài chính như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam còn phải đối mặt với hàng loạt " rào chắn" khi tiếp cận thị trường quốc tế.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã có những điều chỉnh chiến lược quan trọng. Chính sách đối ngoại được chuyển từ “phòng thủ” sang nguyên tắc đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế.
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu bước ngoặt quan trọng với công cuộc Đổi mới. Trong đó, đối ngoại được xác định là mặt trận quan trọng để phá vỡ thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư, và cải thiện vị thế quốc tế. Đường lối "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" được hình thành và trở thành nền tảng lâu dài cho chính sách đối ngoại.
Nỗ lực ngoại giao của Việt Nam giai đoạn “giải vây” có dấu mốc quan trọng là bình thường hóa quan hệ với các nước lớn. Trong đó, bước ngoặt quan trọng là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991 và với Hoa Kỳ năm 1995.
Việc bình thường hóa với Trung Quốc không chỉ giải tỏa căng thẳng khu vực mà còn tạo điều kiện để Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào châu Á. Cùng với đó, quan hệ với Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, không ngừng phát triển, từ chỗ thù địch sang đối tác toàn diện, đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, giáo dục...

Cùng với thúc đẩy quan hệ song phương, Việt Nam chú trọng hợp tác đa phương, khi gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO năm 2007, đồng thời ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), cả song phương và đa phương.
Những bước đi này giúp Việt Nam mở rộng không gian hợp tác, giảm phụ thuộc vào một vài thị trường, đồng thời nâng cao vai trò trong các chuỗi cung ứng toàn cầu. Các mối quan hệ quốc tế còn giúp nước ta gia tăng ảnh hưởng, thu hút nguồn lực và củng cố vị thế trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh biển, và phát triển bền vững.
Cùng với chính trị - an ninh, Việt Nam đẩy mạnh ngoại giao kinh tế với phương châm "lấy kinh tế làm trung tâm", tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp cận thị trường, mở rộng đầu tư. Ngoại giao văn hóa và ngoại giao nhân dân cũng được chú trọng, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

Việc chuyển hóa thế và lực như vậy là minh chứng cho tầm vóc, sự linh hoạt và vai trò quan trọng của chính sách đối ngoại trong tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước.
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động và cạnh tranh chiến lược phức tạp ngày nay, Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại riêng có trong quan hệ quốc tế: “ngoại giao cây tre”. Đây là một triết lý đối ngoại mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cây tre - loài cây biểu tượng cho làng quê Việt - mềm mại nhưng gốc rễ vững chắc, thân thẳng ngay, thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất mà ôn hòa... Ngoại giao cây tre vì thế là sự kết hợp giữa mềm dẻo và kiên định, giữa linh hoạt trong ứng xử và nhất quán trong nguyên tắc.
Chiến lược ngoại giao dựa trên niềm tin
Có thể nói, hành trình 50 năm kể từ ngày thống nhất đất nước, chính sách đối ngoại của Việt Nam luôn duy trì tính linh hoạt và toàn diện, giúp đất nước phá thế bao vây, tạo thế phát triển và nâng cao vị thế quốc gia.
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN tháng 3-2025, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Việt Nam tự hào với tiến trình hội nhập quốc tế được triển khai trong hơn 30 năm qua, mà trong đó ASEAN là điểm khởi đầu, là tiền đề cho Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới.

“Từ một nước bị cô lập, cấm vận, Việt Nam ngày nay có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và là thành viên của hơn 70 diễn đàn, tổ chức khu vực và thế giới. Mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thu hút đầu tư nước ngoài và về quy mô thương mại” - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh.
Từ chỗ là nền kinh tế khép kín, thiếu hụt ngoại tệ nay đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta vượt mốc 700 tỷ USD, với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Nhật Bản... Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng tăng trưởng ấn tượng. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nhờ môi trường chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào, và chính sách ưu đãi đầu tư.
Việt Nam giờ đây là thành viên tích cực của Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), đồng thời tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như APEC 2017, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019 tại Hà Nội. Điều này thể hiện sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế vào vai trò và năng lực của Việt Nam.
Nhờ hoạt động ngoại giao văn hóa và truyền thông quốc tế, hình ảnh Việt Nam hiện đại, hòa bình và thân thiện ngày càng được biết đến rộng rãi. Làn sóng Hàn Quốc hay Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam không chỉ vì kinh tế mà còn do mối quan hệ gần gũi về văn hóa, con người. Cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã đóng vai trò như "đại sứ nhân dân", góp phần làm cầu nối giữa Việt Nam và thế giới.

Nhìn về tương lai, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho rằng, kế thừa truyền thống của các thế hệ cha anh, ngoại giao ngày nay đã tạo dựng cục diện đối ngoại thuận lợi, rộng mở cho bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; từ hội nhập kinh tế đơn thuần chuyển sang hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong những vấn đề và cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với lợi ích của ta cũng như đóng góp thiết thực, có trách nhiệm vào việc giải quyết các vấn đề chung của thế giới.
Nói như vậy có nghĩa là, giai đoạn cách mạng hiện nay, ngoại giao “phục vụ phát triển” huy động các điều kiện, nguồn lực thuận lợi bên ngoài như các xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, sự đồng thuận trong kiến tạo, củng cố thế giới đa cực, đa trung tâm, công bằng, bình đẳng, dựa trên luật pháp quốc tế; các xu thế phát triển mới đang định hình thế giới như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và đặc biệt là những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang mở ra cơ hội đột phá mới như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn… Ngoại giao sẽ tiên phong khơi thông hợp tác với các quốc gia, tập đoàn hàng đầu; khai mở nguồn vốn, nguồn tri thức từ các trung tâm đổi mới sáng tạo; nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu…

“Trong kỷ nguyên đổi mới, ngoại giao đã tiên phong phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước hội nhập quốc tế mở ra giai đoạn phát triển mới của đất nước… Ngoại giao sẽ tiếp tục nỗ lực để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trong bối cảnh mới” - Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định.