Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025): Những dấu mốc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975Bài 7: Đặc sắc nghệ thuật quân sự Việt Nam
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã mang đầy đủ những nét độc đáo, sáng tạo và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của nhân dân ta. Cùng với việc huy động toàn dân đánh giặc, cách đánh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng” là nét đặc sắc trong nghệ thuật dùng binh của ông cha ta đã được vận dụng triệt để vào chiến dịch này.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước để lại nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam, thể hiện ở những nội dung chủ yếu: Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng, hình thành sức mạnh áp đảo bảo đảm đánh địch trên thế mạnh.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, căn cứ vào điều kiện của ta, tình hình địch, yếu tố địa hình, thời tiết; kế thừa truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc trong lịch sử chống giặc ngoại xâm giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, để bảo đảm chắc thắng, Đảng ta đã chỉ đạo tập trung tạo ưu thế về lực lượng một cách hợp lý để đánh thắng địch.
Chiến dịch Tây Nguyên, xét về tổng thể, lực lượng ta và địch tương đương (58dBB/42dBB). Ta không có không quân, nhưng trên hướng và mục tiêu chủ yếu Buôn Ma Thuột ta đã tập trung bộ binh gấp 4,5 lần (18dBB/4dBB), xe tăng thiết giáp gấp 3,5 lần (64 chiếc/18 chiếc), pháo binh gấp hơn 4 lần (78 khẩu/18 khẩu). Do đó, đã tạo nên sức mạnh để tiếp tục giành thắng lợi trong trận đánh địch phản kích và rút chạy trên Đường số 7.
Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng, so sánh về lực lượng, ta chỉ có ưu thế hơn địch về đơn vị chủ lực (1,2/1); lực lượng địa phương (ta 1/địch 1,5), pháo binh (ta 1/địch 2,4), xe tăng, thiết giáp địch ưu thế hơn ta (ta 1/địch 4).
Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta xác định Sài Gòn là “Thủ đô”, nơi trú, đóng các cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội ngụy Sài Gòn; chúng sẽ tập trung binh lực ngoan cố chống cự quyết liệt, mặc dù tinh thần sĩ quan, binh sĩ đã hoang mang, dao động cực độ. Vì vậy, ta tập trung lực lượng mạnh, áp đảo địch chưa từng có, gấp địch 1,7 lần, số đơn vị tập trung gấp 3 lần.
Với nghệ thuật tạo ưu thế về lực lượng hợp lý, khoa học đã hình thành nên các binh đoàn chủ lực cơ động, có sức tiến công rất mạnh, tốc độ tiến công cao, đánh địch với ưu thế hơn hẳn và hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch với thời gian ngắn nhất.
Nghệ thuật kết hợp tiến công và nổi dậy, phối hợp tác chiến của ba thứ quân, lấy đòn đánh lớn của bộ đội chủ lực làm trung tâm phối hợp.
Nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là kết hợp các đòn tiến công như vũ bão của các binh đoàn chủ lực cơ động với sự nổi dậy của quần chúng; kết hợp tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ, tạo sức mạnh áp đảo. Trong đó, đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực đi trước một bước, nhằm trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân sự của địch, quyết định thắng lợi cuối cùng của chiến tranh, trực tiếp hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng. Sự nổi dậy của quần chúng có tác dụng căng kéo, phân tán địch, giành dân, giành đất, mở ra thế trận tiến công mới, tạo ra thuận lợi mới, làm cho lực lượng vũ trang ta càng tăng thêm sức mạnh, có điều kiện và thời cơ tiến lên đánh tiêu diệt, giành thắng lợi lớn. Sự kết hợp đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển, kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự; hai phương thức tiến hành chiến tranh là chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy.
Nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật linh hoạt, sáng tạo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến dịch.
Trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo vận dụng linh hoạt, sáng tạo và thành công các loại hình chiến thuật như điều khiển địch, lừa địch, nhử địch vào kế của ta mà đánh; đánh địch cả trong công sự và ngoài công sự, trên các loại hình rừng núi, nông thôn, đồng bằng, đô thị, đánh địch co cụm hoặc rút chạy; đánh địch trong điều kiện có chuẩn bị, hoặc chuẩn bị gấp; đánh địch trong thế chúng tổ chức phòng thủ từ xa và đánh địch trên các hải đảo; đánh các sư đoàn địch bố trí ở vòng ngoài, đánh thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới vào các trung tâm đầu não địch trong các thị xã, thành phố. Đặc biệt là sự thành công của tác chiến hiệp đồng binh chủng đánh vào thành phố, thị xã và căn cứ quân sự lớn với các hình thức: Tiến công địch trong các căn cứ, thị xã, thành phố lớn, tiến công hành tiến, vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không, truy kích địch trong điều kiện có thời gian chuẩn bị và không có thời gian chuẩn bị đã phát triển vượt bậc và đạt hiệu suất chiến đấu cao. Tiến công binh chủng hợp thành quy mô lớn được vận dụng phổ biến trong các trận tiến công thị xã Buôn Ma Thuột; các thành phố: Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, khẳng định khả năng vận dụng chiến thuật của bộ đội ta đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật trong chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Nghệ thuật khuếch trương chiến thắng của trận then chốt trước với trận then chốt tiếp theo.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ở các chiến dịch tiến công lớn có những đặc điểm khác nhau, nhưng đều có đặc điểm chung là trận then chốt trước thắng lợi đã tạo thời cơ và điều kiện cho việc xuất hiện trận then chốt sau. Trận then chốt sau đã biết tận dụng thành quả của trận then chốt trước để giành thắng lợi lớn hơn.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên, trận then chốt mở màn chiến dịch đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột thành công, buộc Sư đoàn bộ binh 23 ngụy phải ra phản kích vào đúng nơi ta đã dự kiến, để ta đánh trận then chốt thứ hai, đẩy địch đến sự sai lầm rút bỏ Tây Nguyên, tạo thời cơ để ta đánh trận then chốt thứ ba (đánh địch rút chạy trên Đường số 7), giải phóng Tây Nguyên. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi tạo thế phát triển, giải phóng các tỉnh Nam Trung bộ.
Trong Chiến dịch Trị Thiên - Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, chiến thắng lớn ở Trị Thiên - Huế, tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã toàn bộ quân địch ở Bắc đèo Hải Vân. Chiến thắng lớn này vừa làm cho địch ở Huế không co cụm được về Đà Nẵng, vừa làm cho địch ở Đà Nẵng kinh hoàng, cùng với chiến thắng ở phía Nam (giải phóng Quảng Ngãi và Tam Kỳ), như trận then chốt mở đầu chiến dịch đã tạo thời cơ để ta kịp thời đánh thắng trận then chốt quyết định ở Đà Nẵng. Mặc dù lực lượng ta ở đây ít hơn lực lượng địch, nhưng ta lại có thế mạnh hơn hẳn thế địch.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, các trận then chốt chủ yếu lại diễn ra vừa kế tiếp, vừa song song. Có thể coi trận đột phá tiêu diệt năm sư đoàn bộ binh địch phòng ngự vòng ngoài không cho chúng co cụm về Sài Gòn là trận then chốt thứ nhất, đã mở đường cho các binh đoàn thọc sâu đánh chiếm 5 mục tiêu chủ yếu trong nội đô Sài Gòn (trận then chốt thứ hai), giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Như vậy, qua các chiến dịch đều khẳng định đặc điểm đánh thắng trận then chốt trước tạo thời cơ quan trọng cho việc mở trận then chốt sau. Nhưng sự phát triển về nghệ thuật quân sự của ta ở đây là kịp thời tận dụng được thời cơ thắng lợi, khuếch trương chiến quả của trận then chốt trước để đánh thắng trận then chốt sau, làm thay đổi cục diện chiến dịch, chiến lược, có trận kết thúc thắng lợi cả cuộc chiến tranh.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là trận quyết chiến chiến lược, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Sự kiện lịch sử vẻ vang này đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Có thể nói, đây là mẫu mực về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ta đã phát huy đến cao độ sức mạnh tổng hợp của cả nước, kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa quân sự trên thế giới.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 còn là sự phát triển cao của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Những phát triển sáng tạo và độc đáo của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã góp phần hoàn chỉnh thêm một bước và làm phong phú kho tàng nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
(Còn nữa)