Cách nào để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao?Bài cuối: Bứt phá tăng trưởng, kiến tạo kỷ nguyên thịnh vượng
Năm 2025 hứa hẹn là cột mốc mới trên hành trình phát triển bứt phá của nền kinh tế Việt Nam. Với nền tảng tăng trưởng ổn định, chính sách điều hành linh hoạt cùng những chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện, Việt Nam đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng trên 8%, tạo đà hướng tới phát triển ấn tượng hai con số trong những năm tiếp theo.
Tiến sĩ Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới xung quanh vấn đề này.

Biến thách thức thành cơ hội, biến mục tiêu thành hành động
- Thưa Tiến sĩ, ông đánh giá như thế nào về các động lực chính sẽ giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 8% vào năm 2025 và hướng tới mức hai con số trong các năm tiếp theo?
- Theo quan điểm của tôi, động lực cho giai đoạn tăng trưởng cao trong thời gian tới đến từ các nguồn lực khác nhau, nhất là những nguồn mà chúng ta có thể huy động tốt, mang tính nội sinh. Trong năm nay, có nhiều động lực chủ quan và khách quan để Việt Nam đạt được tăng trưởng ít nhất 8%.
Trước hết là yếu tố thời thế để tăng trưởng cao, nhất là đà tăng trưởng bắt đầu từ sau đại dịch Covid-19, được thúc đẩy tiếp bằng sự hồi phục của nhiều nước đối tác lớn từ năm 2023 đến nay. Yếu tố thời thế đến từ những biến động mang tính địa kinh tế liên quan đến xu thế các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chuyển từ các quốc gia khác về nước ta...
Nhưng nguồn lực lớn nhất mà ta chủ động được chính là nguồn vốn đầu tư công lớn hiếm có cho các dự án hạ tầng giao thông, năng lượng... cũng như các dự án đầu tư lớn của khu vực tư nhân. Việc vào cuộc của các cấp ở Trung ương và địa phương, dồn sức cho mục tiêu cao, giao chỉ tiêu cho các địa phương, cũng là động lực tương đối mới và mạnh mẽ. Ngoài ra, thị trường bất động sản bắt đầu hồi phục sẽ có tác động mạnh, toàn diện đến nền kinh tế nước ta, nhất là khi các luật và quy định dưới luật liên quan đến đất đai, thị trường bất động sản được chỉnh sửa, bổ sung, sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Yếu tố vừa mang tính ngoại lực, cũng như yếu tố thời thế và nội lực là vốn FDI cả đăng ký và thực hiện cũng tăng mạnh nhờ tính hấp dẫn tương đối của Việt Nam với các lợi thế về giá cả nhân công và mặt bằng sản xuất, có thị trường xuất, nhập khẩu rất lớn, là thành viên của nhiều Hiệp định thương mại tự do FTA, đặc biệt là sự ổn định chính trị.
Cuối cùng, kinh tế số, nhất là thương mại điện tử đang trong xu thế tăng trưởng mạnh cũng là nhân tố thúc đẩy và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Những động lực trên, cùng với tinh thần quyết tâm, đồng lòng cao trong thực hiện những chủ trương, khát vọng lớn giúp hội tụ đủ ba yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng bứt phá thời gian tới.
- Vậy theo ông, hiện có những bất cập, thách thức nào có thể kìm hãm đà tăng trưởng kinh tế?
- Những thách thức, bất cập và rào cản đến từ trong và ngoài nước, trong đó chủ yếu đến từ nội tại nền kinh tế. Đạt mức tăng trưởng (trung bình) 10% trong thời gian tới là thách thức lớn mà chúng ta chưa bao giờ đạt được, kể cả những năm 90 của thế kỷ trước khi nền kinh tế vừa được giải phóng nguồn lực, nền kinh tế còn “non trẻ” và bối cảnh quốc tế ít biến động mạnh như hiện nay cả trong trung và dài hạn.
Giả sử ta vượt qua được thách thức về tăng trưởng cao thì bài toán duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong những năm tới càng khó khăn trong một nền kinh tế có độ mở lớn, quy mô trung bình và trong một thế giới biến động đầy bất định. Đầu tư công tăng kỷ lục song hành cùng tín dụng tăng mạnh (ít nhất mỗi năm khoảng 20% theo thông lệ điều hành chính sách tiền tệ Việt Nam), tạo áp lực lạm phát cao dai dẳng, sẽ cản trở tăng trưởng.
Những thách thức bên ngoài cũng sẽ tác động không nhỏ như nguy cơ hàng hóa giá rẻ của nước ngoài có khả năng ồ ạt tràn sang nước ta. Liệu doanh nghiệp trong nước có cạnh tranh nổi trước nguồn cung giá rẻ đó không, chưa kể là phải cạnh tranh ngày càng gay gắt tại các thị trường xuất khẩu.
Cuối cùng, một thách thức lớn liên quan tới việc xây dựng được đội ngũ công chức, viên chức tinh gọn, chuyên nghiệp, liêm chính và tinh thần cống hiến cao trong thời gian ngắn. Rõ ràng, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào tiến độ, hiệu lực và chất lượng tiến trình tinh giản, sắp xếp lại bộ máy hành chính hiện nay. Thực tế, tình trạng công chức, viên chức có tâm lý chờ đợi, sợ làm sai, làm việc cầm chừng vẫn còn tương đối phổ biến. Nói cách khác, tình trạng nhiều người e dè, không dám làm, không dám "dấn thân" với công việc có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế cao trong bối cảnh mới.
Chuẩn bị nguồn lực, sẵn sàng chinh phục đỉnh cao
- Theo ông, những cơ chế, chính sách nào cần được ưu tiên để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới? Đâu là những lĩnh vực có thể tạo đột phá?
- Tiền đề quan trọng nhất để tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế thời gian tới chính là thể chế hóa những chủ trương, chính sách đột phá mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo: Đầu tư đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia - những điểm nghẽn đang bắt đầu dần được tháo gỡ. Điều quan trọng là củng cố, xây dựng, nâng cao hiệu quả các thể chế và hệ thống các trung tâm ươm tạo doanh nghiệp, qua đó nâng cao kết quả thương mại hóa sản phẩm, công nghệ, tăng cường mạnh mẽ năng lực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Thế giới hiện nay cạnh tranh chủ yếu dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Chính phủ có cơ chế, quy định hữu hiệu kết nối doanh nghiệp FDI, có đầu tư, cách tiếp cận chuẩn xác, sử dụng có hiệu quả những nguồn vốn vay ưu đãi thương mại để xây dựng những chương trình kết nối doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp FDI, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Một điểm quan trọng khác là các quy định pháp luật cần chuyển đổi theo hướng sớm hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư nhằm tận dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công dôi dư từ quá trình sáp nhập, hợp nhất các cơ quan nhà nước để phục vụ mặt bằng kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Tận dụng lực lượng cán bộ công chức, viên chức có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cao, có đam mê từ quá trình tinh giản. Đây cũng chính là một nguồn lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thực hiện có hiệu quả, hiệu lực quá trình sắp xếp, tinh giản bộ máy gắn liền với nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản trị Nhà nước cũng chính là những lĩnh vực có thể tạo đột phá cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của Việt Nam.
Bên cạnh đó, tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ hơn tiến trình cải cách môi trường kinh doanh để đưa mức độ hấp dẫn của môi trường kinh doanh Việt Nam vào dạng khá trên thế giới và khu vực, thay vì có thứ hạng "nhàng nhàng bậc trung” lâu nay.
Chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện hữu hiệu việc phối hợp chính sách nhất là tài chính tiền tệ để ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ những đối tượng bị ảnh hưởng tiêu cực từ quá trình cải cách, đổi mới và hội nhập.
Tiếp tục nỗ lực tạo điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả đầu tư công bởi lĩnh vực đầu tư công có tác động lan tỏa mạnh mẽ nhất đến nền kinh tế. Thể chế hóa, chi tiết hóa những quy định liên quan đến thị trường bất động sản, nhất là trong định giá, xác lập mức thuế bất động sản và thuê đất…
Trong bối cảnh mới, vai trò kiến tạo tăng trưởng, kết nối của các cơ quan nhà nước, của Chính phủ càng đặc biệt quan trọng, cần tăng cường thông tin đa chiều cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh tiếp xúc với doanh nghiệp để tháo gỡ kịp thời vướng mắc, bất cập, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, kiềm giữ lạm phát ở mức phù hợp.
- Các doanh nghiệp và nhà đầu tư cần làm gì để tận dụng tối đa cơ hội từ sự tăng trưởng mạnh mẽ này, thưa ông?
- Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, nền kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó lường, chủ doanh nghiệp cần có tư duy toàn cầu, hiểu biết sâu địa phương, luôn cập nhật hiểu biết thị trường nước ngoài, pháp luật quốc tế, chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, tránh sa vào hiệu ứng “con ếch bị luộc chín”. Các doanh nghiệp luôn cần xác định tâm thế chủ động, không để sự thỏa hiệp hay chủ quan che mờ nhận thức trước những thay đổi âm thầm nhưng nhanh chóng và nguy hiểm của bối cảnh hiện nay.
Bên cạnh đó, sự thay đổi điều kiện địa kinh tế, địa chính trị đang tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trong liên kết kinh doanh, xuất khẩu sang các thị trường lớn, song cũng có nhiều rủi ro, thách thức, nhất là liên quan đến hàng hóa xuất xứ từ Trung Quốc có thể bị Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá. Tóm lại, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp cũng cần chủ động nâng cao tri thức, hiểu biết và kỹ năng kinh doanh trong một thế giới đầy biến động, với thách thức, mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Có như vậy, doanh nghiệp mới có sức chống chịu cao, góp phần quan trọng để Việt Nam đạt được những mục tiêu kinh tế đầy tham vọng song có ý nghĩa lớn trong kỷ nguyên mới.
- Trân trọng cảm ơn ông!