Một mùa Xuân đặc biệt
Những ngày cuối cùng của năm 1974, tôi lên đường vào Vĩnh Linh. Nhà báo Phạm Tài Nguyên, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại đây có việc gia đình phải về quê Hà Tây gấp.
Cơ quan thường trú chỉ còn điện báo viên Nguyễn Lập nên tôi được cử vào tăng cường. Tôi khá thông thuộc địa bàn, vì năm 1972 đã tham gia chiến dịch ở Quảng Trị, sau đó, đầu năm 1973 trở lại làm nhiệm vụ thông tin về việc trao trả tù binh, triển khai Hiệp định Paris tại đây.
Vĩnh Linh có nhiều thay đổi. Cuộc sống chuyển từ các nhà hầm lên mặt đất. Đồng ruộng xanh hơn. Các vườn hồ tiêu, cao su đang dần hồi phục. Trong chiến tranh, trên mảnh đất này, bình quân mỗi người chịu hơn 7 tấn bom đạn, hơn 5.000 người hy sinh, hàng chục ngàn người bị thương, hàng trăm ngôi làng bị san phẳng. Nhưng sự sống diệu kỳ đang vượt lên. Người ta dễ dàng cảm nhận được điều ấy khi đi dọc từ Cửa Tùng lên Hiền Lương, qua Vĩnh Chấp, Vĩnh Nam, Vĩnh Kim... Phía bên kia vĩ tuyến 17, phần lớn tỉnh Quảng Trị đã được giải phóng, trở thành thủ phủ của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Hai bờ sông Bến Hải đã nối liền. Nỗi đau chia cắt “sông thành giới tuyến còn lưa con đò...” đang lùi xa.
Thị trấn Hồ Xá đang được xây dựng lại. Phân xã Thông tấn xã được bố trí ở cùng UBND đặc khu, tại một căn nhà cấp bốn. Tôi vui mừng gặp lại những người quen cũ: Bí thư Trần Đồng và Chủ tịch đặc khu Dương Tốn là những nhà lãnh đạo gắn bó với đất thép Vĩnh Linh từ những ngày gian khó nhất; các đồng nghiệp ở Đài Phát thanh, Báo Thống Nhất; các anh chị ở Văn phòng Ủy ban đặc khu... Mọi người đều nhắc về những ngày ở Vĩnh Nam, khi các anh chị ở đặc khu giúp anh em thông tấn làm nhà hầm, kỷ niệm về những chuyến công tác, nhắc tên từng anh em ở Phân xã đã chuyển đi các địa bàn khác.
Thời kỳ ấy, Vĩnh Linh vừa phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, đồng thời tăng cường công tác sẵn sàng chiến đấu, làm nhiệm vụ đầu cầu của miền Bắc chi viện cho miền Nam, trực tiếp là cho Quảng Trị. Đặc khu tập trung bảo đảm lương thực, thực phẩm cho người dân địa phương và đáp ứng nhu cầu của các lực lượng trên địa bàn. Việc gì cũng cần được quan tâm và giải quyết.
Tôi đã về thăm lại địa đạo Vịnh Mốc, nơi năm 1972 tôi viết bài thơ “Giếng nước dưới địa đạo” với những câu mở đầu: “Chẳng có bóng cau xõa ngang trời/ Những đám mây trôi các cô gái làng đùa nghịch/ Chỉ mạch nước ngàn đời trong vắt/ Giếng giữa lòng địa đạo hầm sâu...”. Dân Vịnh Mốc đã ra khỏi các làng hầm, xây dựng nhà cửa cho cuộc sống trên mặt đất. Phiên chợ buổi sáng bên cửa biển đã đông, ấm áp tiếng nói cười. Tôi trở lại Vĩnh Nam, căn cứ của Phân xã B Vĩnh Linh trước đây. Đấy là nơi chúng tôi sống giữa đạn bom rình rập, nơi trở về, chia sẻ vui buồn sau những ngày đi chiến dịch.
Giáp Tết, đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương và đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn đến thăm Vĩnh Linh. Tôi đi cùng đoàn Khu ủy ra đón ở bến sông. Các đồng chí Lê Đức Thọ, Đồng Sỹ Nguyên ngồi thuyền máy đi từ phía thượng nguồn sông Bến Hải xuống, tươi cười bước lên bờ chào mọi người. Một chuyến đi bí mật. Sau khi thăm một số khu vực, hai đồng chí chúc Tết và nói chuyện tình hình với cán bộ đặc khu. Đồng chí Lê Đức Thọ dặn dò đặc khu phải vừa tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trước mắt, vừa sẵn sàng trước tình hình mới... Dù không có đủ thông tin, tôi cũng cảm nhận chuyến đi của lãnh đạo chủ chốt của Đảng ở vùng giới tuyến Vĩnh Linh - Quảng Trị có ý nghĩa rất quan trọng vào thời điểm ấy.
Tết năm ấy rất vui. Bếp ăn Ủy ban đặc khu lo cho anh em khá tươm tất, có cả bánh tét, rượu chanh. Phút giao thừa, tôi đi ra vạt đồi trước nhà, nhìn về phía Bắc, nghĩ về gia đình, người thân. Tôi nhớ đến hình ảnh mẹ tôi thắp hương mỗi đêm giao thừa. Nhưng Tết Ất Mão ấy là năm thứ hai mẹ tôi đã đi xa.
Sau Tết, tôi theo xe của Ủy ban đặc khu sang Đông Hà thăm nhà báo Thanh Phong, Phân xã trưởng và các đồng nghiệp Phân xã Thông tấn xã Giải phóng Quảng Trị. Xe chạy qua cầu Hiền Lương, Trung Hải, Dốc Miếu, Quán Ngang, Gio Lễ... Những kỷ niệm trở về trong tôi. Chúng tôi đã từng hành quân dọc tuyến đường này. Nhiều phen nguy hiểm. Khi nằm giữa bãi bom B52, khi cả đêm chịu pháo biển, khi ngang qua bãi bom bi nổ chậm... Vào ngày xuân ấy, từ Dốc Miếu nhìn xuống, một vùng vành đai trắng giờ đã xanh, dù trên mỗi cánh đồng vẫn còn nhiều bom mìn chưa nổ, hằng ngày lấy đi mạng sống con người.
Tôi rất vui khi gặp lại anh Thanh Phong và các anh chị em Phân xã Quảng Trị như: Đỗ Tráng, Trần Thị Kim Quy, Mai Văn Minh, Trần Ngạn... Anh Thanh Phong ôm tôi không muốn rời. Những chuyến đi cùng anh những năm trước đã gắn bó chúng tôi, vì như người ta nói, không đâu dễ hiểu nhau bằng ở chiến trường. Phân xã Quảng Trị làm hai căn nhà mới ở ven sông Hiếu, không ở nhà dân như trước. Tôi có bữa cơm đầu năm mới với anh chị em Phân xã. Bánh kẹo được cấp. Bánh chưng, bánh tét anh em Phân xã tự gói vì có chị Kim Quy, anh Đỗ Tráng rất khéo tay. Bữa liên hoan có cả các anh ở Báo Quảng Trị và Văn phòng Tỉnh ủy nên rất vui.
Chiều hôm ấy, anh Thanh Phong và tôi đạp xe dọc sông Hiếu lên Đông Hà, ngược Ái Tử rồi theo đường 9 đi về phía Cam Lâm, nơi có trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời. Đây là những nơi hai anh em từng đi qua trước đây. Thị xã Đông Hà khi ấy dân đã về nhưng chưa đông. Nhà cửa còn tuềnh toàng. Mặt đường 9 nhiều đoạn vẫn hằn vết đạn bom nham nhở. Thời điểm ấy, toàn tuyến giáp ranh khu vực Hải Lăng - Triệu Phong - thị xã Quảng Trị vẫn trong tình trạng tranh chấp căng thẳng. Một số trận đánh chống lấn chiếm đã nổ ra ở phía sông Ba Lòng. Dù vậy, trong ngày xuân ấy, anh Thanh Phong và tôi đều nói về những dự định khi chiến tranh chấm dứt, về cuộc sống hòa bình sau này...
Cuối tháng 2-1975, tôi rời Vĩnh Linh ra Hà Nội để kịp theo học một chương trình tại Đại học Kinh tế. Không ngờ chỉ khoảng ba tuần sau tôi lại trở lại Vĩnh Linh - Quảng Trị trong đoàn phóng viên tăng cường cho chiến trường. Sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, tình hình thay đổi rất nhanh. Từ địa điểm tập kết ở Đông Hà, chúng tôi hành quân vào Huế đúng ngày giải phóng cố đô. Rồi từ Huế, tôi lại cùng tổ mũi nhọn của Thông tấn xã Việt Nam trong đội hình cánh quân phía Đông tiến vào Đà Nẵng, rồi thần tốc đi suốt dọc dải miền Trung để có mặt ở dinh Độc Lập đúng ngày 30-4-1975 lịch sử.
Đã tròn 50 năm qua, mùa xuân Ất Mão 1975, khởi đầu từ vùng giới tuyến Vĩnh Linh - Quảng Trị, với tôi vẫn luôn là một mùa xuân đặc biệt, một mùa xuân không thể quên trong cuộc đời.